Cá nước lạnh ngược dòng lên cao nguyên đá

Lù A Lâm sinh năm 1996, là một chàng trai người Giáy hiền lành, chăm chỉ. Nơi gia đình Lâm sinh sống thuộc thôn Tà Làng, xã Pải Lủng cũ. Trước khi hợp nhất về xã Đồng Văn, Tà Làng là thôn sâu, xa, nghèo nhất của xã vùng núi khó khăn nhất Đồng Văn - xã Pải Lủng.

Địa bàn xã có tới 93% đồng bào người Mông sinh sống, còn lại là người Tày, Giáy, Kinh, Nùng. Địa hình núi đá chiếm 85%, 15% còn lại là đất nông nghiệp xen ghép. Điều kiện tự nhiên khó khăn khiến Pải Lủng trở thành “vùng lõm” phát triển kinh tế. Trồng cây gì, nuôi con gì cũng khó, chỉ có thể độc canh cây ngô trên những nương rẫy eo hẹp, và đưa tỷ lệ hộ nghèo của Pải Lùng lên tới 2 con số: 58%.

Lý Văn Đông - Trưởng phòng kinh tế xã Đồng Văn (tỉnh Tuyên Quang) - chia sẻ trong lúc mấy anh em cuốc bộ từ cầu treo Tà Lùng vào thăm mô hình cá tầm của chàng trai trẻ Lù A Lâm. Con đường độc đạo chạy ven sông Nho Quế mạn thượng nguồn hẹp tới mức, đi một chiếc xe máy cũng khó khăn, và phương án tối ưu nhất, đó là… đi bộ.

“Không có đất canh tác, thiếu nước vào mùa khô là những cản trở đầu tiên và lớn nhất khiến Pải Lủng làm gì cũng khó. Các dự án nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo đầu tư về cho bà con đều khó triển khai được ở Pải Lủng. Thứ duy nhất ở vùng núi đá nhiều hơn đất này, đó là độc canh cây ngô bản địa, trồng cỏ voi trên những khu có thể trồng được để chăn nuôi gia súc, và nuôi dê núi”, anh Đông nói.

Lý Văn Đông là cán bộ trẻ nhiều năm lăn lộn ở Pải Lủng. Trước khi được điều động làm Trưởng phòng Kinh tế xã Đồng Văn mới sau sáp nhập, anh Đông là Bí thư xã nhất mực khó khăn này. Thế nhưng, Pải Lủng chính là xã sở hữu địa danh đẹp mê hoặc nhất vùng cao nguyên đá: đèo Mã Pì Lèng nằm trên đỉnh núi cao 1.500 m so với mặt nước biển, là khu vực lõi di sản đặc sắc về địa chất và cảnh quan, và là điểm quan sát toàn cảnh vào đẹp nhất ở cao nguyên đá.

Ngoài ra, Pải Lủng cũng sở hữu hẻm vực sông Nho Quế - thung lũng kiến tạo độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Xã gồm 11 thôn bản: Pải Lủng, Páo Sảng, Thình Lủng, Ngài Lầu, Tà Làng, Thào Lủng, Xéo Sả Lủng, Xéo Xà Lủng, Mã Pì Lèng, Sả Lủng, Mua Lài Lủng. Tà Làng nằm trọn vẹn ở vùng núi đá, và ở khu vực thấp nhất so với đỉnh Mã Pì Lèng hiểm trở.

Để đến được Tà Làng, Lý Văn Đông giao cho tôi một chiếc xe máy theo đường qua Má Lủ - thung lũng nhỏ hẹp của Đồng Văn có nhiệt độ chênh lệch cao hơn các vùng khác từ 2-3 độ C; luồn qua con đường hẹp và dốc ngược, hơn một giờ đồng hồ thì chạm sông Nho Quế. “Đây là đường dễ nhất. Nếu đi theo Quốc lộ 4C, qua đỉnh Mã Pì Lèng rồi đi xuống sẽ khó khăn, nguy hiểm hơn rất nhiều”, Lý Văn Đông đầy kinh nghiệm.

Dừng lại chỗ bến thuyền, anh Đông liên hệ một chiếc thuyền máy tới đón. Chúng tôi vào Tà Làng theo đường thủy, và tôi có cơ hội được ngắm nhìn dòng Nho Quế ở mạn thượng nguồn, hiền lành, êm đềm như một khúc sông quê. Nước sông xanh ngăn ngắt, màu xanh đặc trưng của vùng núi đá vôi. Ngược hướng chúng tôi đi là hẻm Tu Sản nổi tiếng, cách xa vài cây số. Hàng xóm của Pải Lủng là Thượng Phùng, Xín Cái. Sông Nho Quế chảy qua những khe núi tạo thành ranh giới tự nhiên của ba xã vùng cao.

 

 

Khác với hình dung của tôi, Lù A Lâm là một chàng trai trắng trẻo, hiền lành, thư sinh. Lâm giống một thầy giáo cắm bản hơn là một anh nông dân dám liều lĩnh mang con cá tầm lên tận Mã Pì Lèng để nuôi.

Năm 2022, một lần xuống chơi nhà người bạn dưới huyện Bắc Quang (tỉnh Hà Giang cũ), thấy mô hình nuôi cá tầm ở Bắc Quang rất phát triển, Lâm bỏ công tìm hiểu. Rồi anh biết đây là giống cá quý đang được rất nhiều người dân miền núi nuôi để làm kinh tế, nhất là những khu vực gần nguồn nước ở độ cao trên dưới 1.000 m, khí hậu mát mẻ, nước luôn lạnh và có dòng chảy lưu thông.

So sánh với địa hình bản Tà Làng nơi gia đình đang sinh sống, mặc dù là vùng cao nguyên đá khô hạn, thiếu nước vào mùa khô nhưng con suối cạnh nhà Lâm lúc nào cũng có nước chảy về, và dòng nước lúc nào cũng lạnh hơn bình thường. Thấy có nhiều điểm tương đồng, Lâm nảy ý tưởng nuôi thử.

Để chắc chắn, anh dành mấy ngày đi khảo sát, kiểm tra địa hình, tìm hiểu những khe nước xung quanh đổ xuống con suối cạnh nhà. Con suối này có từ rất lâu, từ thời ông bà đã có. Nó được hình thành từ hàng trăm khe nước, mó nước nhỏ ra từ những đỉnh núi đá cao chót vót, dù không thành dòng ào ào như thác nhưng lúc nào cũng tuôn trào không dứt.

Ở vị trí thượng nguồn, còn cao hơn cả dòng Nho Quế, con suối Tà Làng cũng là nguồn cung cấp nước cho sông Nho Quế, để sông dềnh dàng uốn lượn mấy chục km, từ đất Đồng Văn chạy sang tận Khâu Vai (huyện Mèo Vạc cũ). Trên khúc sông hẹp lòng và dốc này, đã có 3 công trình thủy điện được xây dựng mang lại nguồn thu lớn cho tỉnh Tuyên Quang.

Lù A Lâm quyết định mang con cá nước lạnh lên cao nguyên đá!

Khi đã tích lũy được cơ bản những kiến thức, cách thức, quy trình nuôi cá tầm, Lù A Lâm cùng người anh trai là Lù A Sừn (SN 1976) thí điểm nuôi thử 300 con cá tầm giống trong một chiếc bể bạt. Thấy cá khỏe mạnh, thích nghi và phát triển rất khỏe, anh quyết định xây dựng hệ thống bể nuôi kiên cố. Đó là 3 bể bê-tông gần như thẳng hàng, trên khu đất khá bằng phẳng cạnh suối để thuận tiện cho việc lấy nước và vệ sinh, thau dọn bể nuôi.

Do đường núi địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn nên việc chở vật liệu xây dựng rất vất vả. “Em mua xi-măng và vận chuyển bằng đường thủy. Thuyền xuất phát từ bến thuyền du lịch Nho Quế, chạy gần chục km đường sông, sau đó huy động anh em tới giúp, gùi từng bao xi măng, cõng từng thanh sắt lên bờ. Cát sỏi, Lâm nhờ người dân trong bản ra suối, ra sông Nho Quế xúc về, tự khai thác để giảm chi phí. Riêng tiền thuê người đi lấy cát sỏi ở lòng sông đã hết 30 triệu đồng. Tổng chi phí xây 3 bể nuôi trên dưới 100 triệu đồng”, Lâm chia sẻ.

 

 

Để có tiền đầu tư nuôi cá tầm, hai anh em Lù A Lâm, Lù A Sừn bán đi 4 con bò Mông trưởng thành, mỗi con nặng gần 5 tạ. Thời điểm bán bò năm 2023, bò vẫn đang được giá. Chi phí xây bể, mua cá giống, thức ăn, vật tư chăn nuôi, thuốc bảo vệ, phòng ngừa bệnh cho cá tầm… trong năm đầu tiên lên tới gần nửa tỷ đồng. Với Lù A Lâm, đây là một số tiền rất lớn, và cũng là dự án nuôi thủy sản lớn nhất từ trước tới nay ở bản Tà Làng, ở xã Pải Lủng.

Mỗi bể nuôi có kích thước khoảng 40-50 m3, Lâm thả 1.000 cá tầm giống. Nước tự nhiên lấy từ khe núi chảy rất mạnh do chênh lệch độ cao, chảy liên tục ngày đêm nên lượng ô-xy trong nước luôn đảm bảo mà không cần phải dùng máy bơm để sục nước tạo khí.

Ở mỗi bể có 2 hệ thống ống dẫn nước: một đường ống dẫn nước từ khe suối về tiếp nước liên tục cho các bể nuôi; một đường ống khác là đầu ra, sử dụng khi tháo nước vệ sinh bể. Nước thau ra được dẫn xuống một chiếc ao lớn để nuôi cá nước ngọt. Việc xây dựng, bố trí hệ thống bể nuôi của Lù A Lâm khá khoa học, đặc biệt rất phù hợp với địa hình vùng núi Tà Làng.

Thời điểm chúng tôi có mặt, lứa cá đầu tiên của Lù A Lâm đã bắt đầu cho thu hoạch. Lứa cá này nuôi trong khoảng 15-17 tháng, mỗi con cá tầm trưởng thành đạt trọng lượng trên 2 kg, dài khoảng 60 cm. Cá thương phẩm Lâm đang bán từ 250-300 ngàn đồng/kg - mức giá “khá mềm” so với những chi phí đầu tư bỏ ra trong điều kiện vùng núi khó khăn, vất vả. Với mức giá này, ai cũng có thể tiếp cận được với loài đặc sản được nuôi trong môi trường nước sạch sẽ tới mức tinh khiết này.

 

 

Theo tính toán của Lâm, chi phí để nuôi một con cá tầm thương phẩm hết khoảng 250 ngàn đồng trong thời gian 1,5 năm, từ khi bắt đầu thả cá giống. Như vậy, lợi nhuận anh em Lâm thu được trừ chi phí khoảng 200 ngàn đồng/con. Từ đầu năm tới nay, Lâm đã bán được gần 250 triệu đồng tiền cá, đã thu hồi được 1/2 số vốn đầu tư ban đầu.

“Con cá tầm rất ưa sạch. Bể nuôi nếu còn thức ăn dư thừa từ ngày hôm trước, hôm sau thả thức ăn xuống nó sẽ không ăn. Cho nên, cứ 2 ngày em phải thay nước, đánh rửa và kỳ cọ bể một lần. Loài này cũng là loài ăn đêm nên giờ giấc rất trái khoáy, cứ nửa đêm là em phải cho cá ăn, kết thúc trước 4-5 giờ sáng”, Lâm kể.

Khách hàng của Lâm đều là những người quen, chủ các homestay, nhà hàng trên địa bàn Đồng Văn. Khách gọi điện đặt cá, Lâm mang vợt ra bể xúc, rồi đi thuyền máy xuống bến thuyền Nho Quế, chỉ trong 1 tiếng đồng hồ là đã chuyển tới tận nơi. Cá mang xuống lúc đó vẫn tươi rói và rất sạch. Cá tầm nuôi ở độ cao 1.500 m lớn chậm hơn nhưng có vị thơm riêng, thịt dai và rất thơm ngon, khác hẳn với chất lượng cá nuôi ở những khu vực có độ cao 800-1.000 m.

Vụ cá đầu tiên của anh em Lâm khá thành công. Số cá bán đi mới khoảng 500 con nhưng thu về được 250 triệu đồng. Số cá hiện tại còn lại trong 3 bể nuôi của Lâm khoảng 2.000 con, nếu bán hết sẽ cho thu về khoảng 1 tỷ đồng.

Lù A Lâm mang vợt xúc cá dẫn chúng tôi tới chiếc bể nuôi ngoài cùng. Bằng động tác rất nhanh, dứt khoát và chính xác, Lâm chao vợt nhấc lên một mẻ khoảng chục con cá tầm trưởng thành, con nào con nấy da đen bóng, khỏe mạnh. Thú vị hơn nữa, trong bể nuôi của Lâm có một cặp cá tầm bạch tạng, da màu sáng khác hẳn những con khác.

“Khi bắt cá giống lên nuôi, em để ý 2 con có màu da sáng hơn so với những con khác. Càng lớn, màu da của chúng càng khác biệt, và mỗi ngày càng sáng hơn. Em gọi nó là cá bạch tạng. Cặp này em sẽ giữ lại nuôi chứ không bán. Mỗi lần ra bể chăm cá, nhìn chúng bơi lội tung tăng, lớn lên mỗi ngày, bao nhiêu mệt mỏi như trôi đi hết”, Lâm tâm sự.

Ở Đồng Văn, mô hình nuôi cá tầm của Lù A Lâm là mô hình đầu tiên nhưng ngay từ đầu đã khẳng định sự phù hợp và có rất nhiều triển vọng để mở rộng quy mô. Con suối Tà Làng chạy qua nhiều ngóc ngách, khe sâu nhưng nguồn nước rất dồi dào, có thể xây dựng một chuỗi hệ thống các bể nuôi giật cấp dọc theo khe, bể bên dưới sẽ hứng nước từ bể bên trên. Đây chính là mô hình được nhiều hộ nuôi cá tầm triển khai ở Ô Quy Hồ, Sa Pa (tỉnh Lào Cai) trên những con suối dốc, hẹp lòng, địa hình bị chia cắt, nhiều đá tảng hiểm trở.

“Tới đây, em đang muốn đầu tư, mở rộng thêm mấy bể nuôi nữa nhưng sẽ làm theo mô hình bể giật cấp. Nước suối Tà Làng rất sạch, các chỉ số trong nước phù hợp với các yêu cầu để nuôi cá tầm. Kinh nghiệm đã có, em cũng sẵn sàng chia sẻ cho bà con trong bản nếu như ai có nhu cầu nuôi cá tầm”, chàng trai người Giáy thật thà.

ca-nuoc-lanh-nguoc-dong-len-cao-nguyen-da-081910_643

Từ khu vực nuôi cá tầm của Lù A Lâm, ngước mắt nhìn lên đến mỏi cổ mới thấy đỉnh Mã Pì Lèng chênh vênh phía trên cao. Người tinh mắt sẽ nhận ra những chiếc xe đang di chuyển trên đỉnh đèo, bé tẹo như những bao diêm. “Nhìn thì xa vậy thôi, nhưng từ Tà Lang có đường bộ để lên đỉnh đèo, qua rất nhiều các khúc cua, và không phải ai cũng có thể tự tin chạy xe máy leo lên tới đỉnh được. Chúng em ngày nào cũng phải đi cung đường khó khăn, nguy hiểm ấy”, Lâm nói.

Trưởng phòng kinh tế xã Đồng Văn Lý Văn Đông cho biết, địa phương đang khuyến khích các mô hình làm kinh tế hộ gia đình để phát triển kinh tế, giúp bà con xóa nghèo, làm giàu trên chính bản làng, quê hương mình. Đặc biệt, những người trẻ dám nghĩ dám làm như Vàng Thị Dế - thiếu nữ Mông khởi nghiệp bằng sợi vải lanh ở Thải Phìn Tủng, Lù A Lâm - người tiên phong nuôi cá nước lạnh ở Tà Làng… là những trường hợp được khuyến khích, cổ vũ không chỉ tinh thần mà còn được cho vay vốn ưu đãi, mỗi một trường hợp từ 150-200 triệu đồng.

“Đồng Văn là trung tâm du lịch của cao nguyên đá, mỗi năm đón hàng triệu lượt khách tới thăm và lưu trú. Hiệp hội du lịch Đồng Văn đã được thành lập với sự tham gia của hơn 20 doanh nghiệp trên địa bàn xã, các điểm homestay, dịch vụ kinh doanh nhà hàng, khách sạn... ngày càng mở rộng về quy mô, số lượng. Vì thế, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm hằng ngày là rất lớn. Cá tầm nuôi trên thượng nguồn sông Nho Quế của Lù A Lâm chất lượng cao, đảm bảo môi trường do nguồn nước rất sạch, giá cả hợp lý… sẽ là những điểm cộng để du khách có thể thưởng thức trong chuyến đi của mình. Xã đang khuyến khích các hộ dân mạnh dạn đầu tư để Tà Làng trở thành vựa cá nước lạnh của Đồng Văn”, Lý Văn Đông cho biết.

Kiên Trung
Trương Khánh Thiện
Kiên Trung
Kiên Trung
Xem thêm