Sắc hương Tú Lệ bay trên núi

Có thể Tú Lệ chưa phải là thung lũng đẹp nhất Tây Bắc nhưng vùng đất này có một sức cuốn hút cực kỳ lạ, lỡ đến đây rồi sẽ chẳng thể nào quên.

Khác với thung lũng Mường Hoa ở trên Sa Pa, Mường Thanh ở Điện Biên hay Mường Lò ở Nghĩa Lộ, thung lũng Tú Lệ mang một vẻ đẹp khác, một đời sống khác và một bản sắc khác.

Thung lũng ấy giống như một nàng thơ của núi rừng Tây Bắc, với sắc hương nồng nàn mà sáng trong vừa thuần khiết lại vô cùng da diết. Nhất là khoảng độ cuối tháng Chín đầu tháng Mười, thời khắc nàng thơ ấy đẹp nhất.

Dù ngược từ thị xã Nghĩa Lộ (cũ) lên hay xuôi từ trên mạn vùng cao Mù Cang Chải xuống, chẳng cần dùng đến định vị dẫn đường cũng dễ dàng nhận biết đang chạm vào Tú Lệ.

 

Sắc nắng mùa Thu rót mật nhuộm vàng thung lũng. Nắng tô thêm vẻ đẹp của những thảm lúa vàng rải rác trên đồi nương hay chạy dọc dài theo dòng suối Nậm Lung như dải lụa uốn mềm quanh chân núi.

Tú Lệ mùa này, những anh đào, tớ dày hay muôn vàn loài hoa khác đã trốn biệt hết vào màu xanh của núi, nhường lại sân khấu duy nhất cho lúa khoe sắc mùa vàng dưới nền trời xanh lơ. Phảng phất đâu đây còn là hương cốm lẫn trong làn gió mùa Thu man mác. Phía xa xa là dáng hình một thiếu nữ Thái với áo cóm, khăn Piêu đang ngồi bên hiên của một mái nhà sàn cổ. Đôi bàn tay trắng trong như ngọc đang tỉ mẩn nhặt lựa từng hạt lúa nếp cũng trắng trong như ngọc. Những hạt ngọc chắt chiu từ tinh túy của đất trời để làm ra thứ cốm thơm ngon nức tiếng.

Đó là những chỉ dấu rất riêng của một vùng đất giúp ta nhận biết và thổn thức: A Tú Lệ đây rồi.

Tôi quen biết Lương Văn Thư từ thời anh còn làm Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Mù Cang Chải cũ. Dịp này lên với vùng cao Tây Bắc, thật tình cờ lại được gặp anh khi về công tác tại xã Tú Lệ mới với chức danh Bí thư Đảng ủy xã.

Anh Thư còn khá trẻ, mới chỉ ngoài 40. Một người say nông nghiệp và say Tây Bắc đến nỗi bất chấp gia đình ngăn cản, rời vùng quê chiêm trũng lên đây lập nghiệp từ thuở chưa vợ con gì. Tôi không biết có phải vì thế mà anh được phân công về làm Bí thư Tú Lệ, vùng đất nổi danh khắp cả nước với sản vật gạo nếp nức tiếng hay không? Chỉ loáng thoáng nhận ra vừa mới nhận nhiệm vụ được mấy hôm nhưng đã lăn ngay vào công việc, hiểu tường tận vùng đất này như thể gắn bó từ lâu năm. Nói về lịch sử văn hóa, điều kiện địa chất, tiềm năng lợi thế của Tú Lệ suốt buổi không thấy chán.

Tú Lệ mới tương đối đặc biệt, giọng Bí thư Lương Văn Thư chậm rãi. Quê hương gạo nếp là một trong mấy địa phương hiếm hoi của tỉnh Yên Bái cũ được hình thành bằng việc sáp nhập 2 xã của 2 huyện khác nhau: Tú Lệ của Văn Chấn và Cao Phạ của huyện Mù Cang Chải. Xã mới sau sáp nhập có diện tích tự nhiên hơn 11.534ha, dân số hơn 12.900 người, trong đó chủ yếu là người Mông và người Thái, tỷ lệ hộ nghèo còn xấp xỉ 28,3%... Dù mở rộng diện tích, thay đổi địa giới hành chính nhưng cái tên Tú Lệ vẫn được chọn để đặt cho xã mới. Có lẽ một phần cũng là vì cái tên ấy đã quá quen thuộc và gắn liền với sản vật nổi tiếng bậc nhất trên vùng cao Tây Bắc?

 

 

Trung tâm xã nằm ngay dưới chân đèo Khau Phạ, từng thung lũng nối tiếp nhau chạy quanh ba ngọn núi cao Khau Tháu, Khau Phạ và Khau Song. Lại thêm dòng Nậm Lung từ trên núi cao đổ xuống, tạo nên một vùng đất sơn thủy hữu tình.

Nhiều nhà nghiên cứu đã từng phân tích, chính nhờ điều kiện tự nhiên trời ban như vậy mà Tú Lệ mới sản sinh ra thứ nếp thơm ngon nức tiếng. Nhưng anh Thư có cách lý giải đơn giản và dễ hiểu hơn. Đó là do thung lũng nằm dưới chân núi nên biên độ dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn, tầng đất mỏng và tơi xốp, lại được tưới tắm thường xuyên bởi dòng suối Nậm Lung nên mới tươi tốt hơn những nơi khác. '

Lúa nếp trồng trong thung lũng, ban ngày có đủ ánh sáng và nhiệt độ để trao đổi chất, ban đêm trời lạnh làm tăng mạch tinh bột và các dưỡng chất khác đi vào hạt nên mới trở thành giống nếp ngon nhất Việt Nam. Phàm là dân làm nông nghiệp, gặp được những vùng đất như thế quý hơn tấc vàng.

So sánh vậy thì Tú Lệ là một mỏ vàng rồi. Tiếc là năm nay mưa lũ cuốn trôi mất của bà con hơn 100ha ruộng. Bí thư Đảng ủy xã chép miệng. Đối với đồng bào đây là mất mát quá lớn, trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của hàng trăm hộ gia đình. Còn đối với chính quyền, mất hơn 100ha ruộng là mất một phần định hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp của Tú Lệ.

Nếu cộng cả Tú Lệ và Cao Phạ cũ, xã mới có hơn 400ha ruộng trồng lúa nếp. Mọi năm với diện tích này bà con thường làm hai vụ, gặp khi tiết trời thuận lợi có thể thu hơn 4 tấn lúa/ha. Năm nay mưa lũ, mất hơn 100ha đồng nghĩa bà con mất hơn 400 tấn lúa nếp đặc sản. Ai cũng tiếc, cũng xót xa, nhưng bù lại mùa cốm này Tú Lệ có vẻ khá nhộn nhịp, như lời anh Thư nói là sôi động nhất trong nhiều năm trở lại đây.

Đặc biệt, sau lễ hội Hương sắc mùa thu Tú Lệ hồi cuối tháng Chín vừa rồi, cốm Tú Lệ tăng kỷ lục cả về giá cả và số lượng mua bán. Thời điểm này mỗi kg cốm xanh bà con đang bán với giá 150.000 đồng, nhiều gia đình làm nghề cốm ở dưới chân đèo Khau Phạ mỗi ngày gửi xe khách cả tấn hàng, thu hơn 150 triệu đồng.

Không ai rõ nghề làm cốm ở Tú Lệ có tự bao giờ và anh Thư cũng vậy. Bí thư Đảng ủy xã Tú Lệ dẫn tôi đi xuống Nà Lóng, bản người Thái nằm bên dòng suối Nậm Lung. Tất cả những câu chuyện về cốm Tú Lệ đều có ở bản nhỏ yên bình này. Dọc đường anh Thư bảo, từ mấy năm trước Nà Lóng đã được tỉnh Yên Bái cũ công nhận là làng nghề truyền thống. Tuy nhiên sự ghi nhận ấy có lẽ chỉ mang tính tượng trưng, bởi từ lâu nhắc đến Tú Lệ là nhắc đến cốm và nhắc đến cốm sẽ nhắc đến Nà Lóng.

Bản nhỏ với những mái nhà sàn thâm trầm của người Thái lẩn khuất giữa màu xanh của núi và màu vàng của lúa. Vừa có sắc lại có cả hương. Chưa qua khỏi cổng chào đầu bản, hương cốm Nà Lóng đã theo gió núi ùa đến, dịu dàng. Gió thổi mùa Thu hương cốm mới, câu thơ của Nguyễn Đình Thi như bất chợt bật lên. Nhưng hương cốm Tú Lệ không giống hương cốm Làng Vòng của mùa Thu Hà Nội. Thoạt đầu tiếp xúc, có cảm giác thứ hương ấy vừa đậm đà lại vừa dịu ngọt. Lúc quen hơn thấy nhẹ nhàng, thoang thoảng, hít đến căng tràn lồng ngực rồi mà vẫn muốn đắm chìm mãi trong thứ hương thơm mang lại cảm giác khoan khoái, dễ chịu ấy. Bao nhiêu mệt mỏi đường xa chợt tan biến đi đâu hết. 

Trưởng bản Lò Văn Oa năm nay xấp xỉ tuổi 60, chậm rãi kể rằng: Từ thời xa xưa người Thái ở Nà Lóng đã biết làm cốm, nhưng chưa phải là nghề mà chỉ là thứ để ăn chơi trong những dịp lễ tết hay mừng lúa mới. Ban đầu chỉ là thứ cốm già, đồng bào gọi là “khẩu hang”, làm đơn giản từ nếp mới, nấu lên kiểu như xôi. Sau này đời sống khấm khá hơn mới làm cốm non hay còn gọi là cốm xanh, thứ cốm được lựa chọn kỹ càng hơn, làm qua nhiều công đoạn hơn và tất nhiên cũng ngon hơn so với cốm già.

Có lẽ trước khi nói nhiều về cốm cũng cần sơ qua đôi nét về gốc gác nếp Tú Lệ, nguyên liệu ban đầu của sản vật trời ban, dù chỉ là huyền tích. Người Thái trên đây vẫn thường lưu truyền nhau rằng, xa xưa lắm tổ tiên họ đã được một vị tiên trên trời ban cho một gùi thóc quý kèm theo lời dặn, phải tìm được chỗ nào có đất phù hợp thì thóc mới nảy mầm và cho nhiều gạo dẻo thơm.

Người Thái đi khắp núi rừng Tây Bắc, tìm đến những nơi đất tốt nhưng gieo thử nơi nào thóc cũng không chịu nảy mầm. Cho đến khi họ đến thung lũng dưới chân đèo Khau Phạ, bên dòng suối Nậm Lung và nếp Tú Lệ có từ thuở ấy. Trải qua năm tháng, nhờ trời đất chọn lọc, lai tạo mà người Thái có được ba giống nếp quý, dần trở thành sản vật lừng danh là Tan Lả, Tan Chậu và Tan Pỏm. Cả ba giống nếp đều được đồng bào dùng để thổi xôi, làm cốm, gói bánh chưng, giã bánh dày, nấu chè hay nấu rượu… Tuy nhiên để làm ra thứ cốm xanh ngon nức tiếng lại chỉ có giống nếp Tan Chậu.

Giống ấy bắt đầu gieo cấy từ cuối tháng Năm Âm lịch và có chu kỳ sinh trưởng thường kéo dài khoảng 120 ngày. Đến tháng Tám, khi đất trời chuyển sang tiết Thu cũng là lúc người Thái Nà Lóng bắt đầu thu hoạch Tan Chậu, cũng là khi Tú Lệ bắt đầu mùa cốm.

 

 

Từ sáng sớm tinh mơ, khi núi rừng còn ngủ vùi, sương mù còn là tấm màn che khổng lồ trùm quanh các ngọn núi Khau Phạ, Khau Tháu và Khau Song thì người Thái ở Nà Lóng đã ới nhau đi ra cánh đồng ven suối Nậm Lung. Trên những đám ruộng ướt đẫm sương mai, họ tìm những bông lúa đủ tiêu chuẩn để làm cốm. Tỉ mẩn chọn lựa những bông lúa bắt đầu chín nhưng vẫn phải còn thơm mùi sữa, hạt lúa không còn xanh nhưng cũng chưa đến độ vàng, rồi cắt cổ bông mang về trước lúc ánh mặt trời lên.

Những bông lúa giao thời ấy được mang về tuốt và sàng đãi để loại đi những hạt non, hạt lép, làm sao sao để hàng vạn hạt lựa chọn đem đi làm cốm phải đều nhau như một. Tiếp đến là rang. Đây là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và cả cảm nhận riêng của từng người. Nôm na là giống với cách người vùng trung du mạn Thái Nguyên hay Phú Thọ vẫn thường sao những mẻ chè đỉnh cao tinh túy. Đôi bàn tay tài hoa cùng với giác quan thứ 6 của người bản địa chính là tinh hoa của một thứ nghề.

Trưởng bản Nà Lóng Lò Văn Oa cũng là một cao thủ rang cốm, khoe rằng vừa mới giành giải Nhì cuộc thi làm cốm trong Lễ hội hương sắc mùa Thu xã Tú Lệ. Cao thủ ấy tiết lộ một phần bí kíp, ấy là cốm rang khó nhất phải giữ lửa vừa. Non lửa một chút hạt nếp sẽ sống mà già thêm thì lại cháy. Người rang cốm tay phải đều như máy. Chỉ một chút lơ là, lỡ nhịp khiến một vài hạt cốm chưa chín cũng xem như bỏ đi cả mẻ. Cốm rang xong để tầm 30 phút sẽ mang đi tách riêng phần vỏ và phần hạt, bây giờ đã có máy xát còn ngày trước đồng bào phải tách bằng tay rất vất vả.

Đến phần giã cốm cũng lại kỳ công và không kém gì mấy so với phần rang. Cái khó của công đoạn này đòi hỏi phải có hai người phối hợp với nhau, giã bằng cối đá hoặc cối gỗ. Ông Oa kể thêm khoảng thời gian trước người Thái Nà Lóng nhà nào cũng có một chiếc cối gỗ đặt ngoài bờ suối. Bà con tận dụng sức nước từ những chiếc cọn chảy vào cối để giã cốm. Cứ sáng mang cốm ra bờ suối, đến tầm trưa lại ra lấy về, mỗi ngày hai mẻ. Sau này cốm thành nghề, Nà Lóng thành làng nghề, bà con phải giã cốm bằng tay, cho dù theo cảm nhận của trưởng bản, cốm giã bằng nước suối ăn thấy ngon hơn so với cốm người làm.

 

 

Kể từ khi du lịch vùng cao phát triển, nghề làm cốm trở thành nghề chính của 2/3 hộ dân trong bản Nà Lóng. Mùa cốm, buổi chiều đi quanh bản, đến nhà nào cũng thấy rang, thấy giã. Một người đứng phía đuôi cối đạp, người kia ngồi đầu đảo cốm. Nhịp nhàng như một cỗ máy được lập trình. Hương thơm từ hạt lúa mới còn nguyên mùi khói, thơm lừng. Cả bản Nà Lóng chiều nào cũng dậy lên thứ hương thơm đặc biệt ấy. Thứ hương thơm có lẽ là của riêng Nà Lóng, chẳng nơi đâu có được.

Cốm giã xong bà con để nguội rồi gói lại bằng lá dong hoặc lá chuối. Một số bán luôn cho du khách, số còn lại nhập về các đại lý, hợp tác xã. Bên Nậm Có, Lìm Thái, Lìm Mông, Búng Sổm, Bản Côm cũng vậy. Nghề làm cốm đang dần trở thành nghề chính của người dân Tú Lệ. Những năm gần đây người Tú Lệ du nhập phương pháp hút chân không. Cốm cho vào túi nilon xong hút chân không, ướp lạnh có thể để đến nửa năm trời đưa ra sử dụng vẫn cứ thơm ngon như thường. Anh Thư nói, nhờ kết hợp nghề cốm truyền thống với chế biến bảo quản mà giờ đây cốm xanh Tú Lệ có thể đi Hà Nội, vào Thành phố Hồ Chí Minh, thậm chí đi ra nước ngoài.

Có thị trường bà con hăng hái hẳn. Tính ra làm cốm nâng cao giá trị hạt nếp Tú Lệ lên rất nhiều, thu nhập bà con cũng tăng lên. Cứ 10kg lúa nếp làm được 6-7kg cốm xanh. Giá lúa nếp 50 ngàn đồng/kg, trong khi giá cốm 150 ngàn đồng/kg, thành thử làm càng nhiều càng lãi. Bà con còn biết cách quảng bá hình ảnh cốm trên mạng xã hội, livestream bán hàng, đưa sản phẩm nếp và cốm lên sàn thương mại điện tử…

Đến như Phó Chủ tịch UBND xã Đinh Thị Hường cũng là “bà trùm” bán cốm. Ngày mùa như dịp này chị Hường có thể chuyển xe khách hàng tấn cốm là chuyện bình thường. Còn nguyễn Thị Anh Thơ, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ thương mại nông lâm nghiệp Cao Phạ, người đang dẫn dắt bà con ở Lìm Thái xây dựng sản phẩm nếp Tan OCOP chia sẻ rằng: Trước mắt bà con sẽ thoát nghèo từ những thứ gắn bó, thân thuộc với mình, sau nữa hoàn toàn có thể làm giàu từ nếp, cốm và những sản vật của địa phương.

 

 

“Đây cũng là định hướng phát triển của Tú Lệ mới”, anh Thư phân tích thêm. Không chỉ gia tăng giá trị sản phẩm chủ lực bằng việc quy hoạch vùng trồng, phát triển hợp tác xã xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến, mở rộng thị trường.

Xa hơn Bí thư xã Tú Lệ còn muốn gắn sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 4 sao này với phát triển du lịch. Ngoài nếp và cốm, giá trị của Tú Lệ còn là cảnh quan. Nghĩa là có cả hương và sắc. Thung lũng Tú Lệ với danh thắng ruộng bậc thang là một trong 8 điểm ngắm bình minh trên ruộng bậc thang đẹp nhất Tây Bắc.

“Sừng trời” Khau Phạ từ lâu đã làm điểm bay dù lượng nổi tiếng tầm quốc tế. Rồi những bản Lìm Mông, Lìm Thái, những lễ hội vùng cao đang dần trở thành kho báu chờ các nhà đầu tư vào đánh thức. Nhiều sự kiện, sản phẩm du lịch của Tú Lệ đã trở thành thương hiệu hấp dẫn khách du lịch trong nước, quốc tế như Fetival dù lượn Bay trên mùa vàng, Bay trên mùa nước đổ, Lễ hội Lồng tồng, Lễ hội Cốm Tú Lệ… Lượng du khách đến với Tú Lệ lần lượt tăng nhanh qua các năm, như năm 2025 đạt trên 440.000 lượt khách, doanh thu từ du lịch đạt hơn 350 tỷ đồng.

“Nông nghiệp - du lịch - dịch vụ sẽ là chiến lược phát triển của Tú Lệ. Để mỗi hạt lúa nếp không chỉ là sản vật làm quà mà còn chứa đựng giá trị văn hóa của đồng bào, kết hợp với giá trị cảnh quan, trở thành những hạt ngọc, hạt vàng”, anh Thư cao hứng.

Xã Tú Lệ mới bây giờ có 16 thôn bản, mỗi thôn bản là một thung lũng, đẹp tựa tranh. Bà con vừa sản xuất vừa kết hợp với phát triển mô hình du lịch cộng đồng, xem chừng rất khá giả.

Bản Ít Thái nằm trọn trong một thung lũng nhỏ ngay dưới chân đèo Khau Phạ. Gốc gác ngày trước nghe đâu di cư từ bên Ngọc Chiến (tỉnh Sơn La) sang. Dù mới đây đã sáp nhập với bản Trống Tông của người Mông (152 hộ dân) để trở thành bản Tà Sung nhưng người Tú Lệ vẫn quen gọi là Ít Thái. Bởi đây là nơi khởi phát của mô hình du lịch cộng đồng kết hợp với xây dựng thương hiệu nông sản, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào.

Trưởng bản Lù Văn Quyết kể: Từ năm 2017, có một nhóm các bạn trẻ ở Hà Nội lên đây, nhìn thấy Ít Thái đẹp quá mới vận động dân bản làm du lịch. Họ lập ra nhóm Những người bạn Khau Phạ. Nhiều ngôi nhà sàn truyền thống của người Thái được tu bổ, cải tạo làm nơi đón khách. Các điểm ngắm bình minh, hoàng hôn và ngắm ruộng bậc thang được giới thiệu, quảng bá. Cùng với đó là phục hồi các nghề truyền thống mang đậm giá trị văn hóa của người Thái, người Mông như nhuộm vải, vẽ sáp ong, trồng lúa nếp, đan nông cụ…

Các mô hình homestay ở Ít Thái ra đời: Quân Pỏm, Kiên Pành, Quyết Đoản. “Những người bạn Khau Phạ” còn kêu gọi cộng đồng xây dựng cầu đá bắc qua suối Nậm Lung đi vào bản, xây dựng nhà văn hóa cộng đồng và kè chống sạt lở, bảo vệ diện tích ruộng của bà con.

Nhờ đó, bây giờ Ít Thái là địa chỉ du lịch cộng đồng danh tiếng. Ngoài các mô hình homestay, bà con còn tích cực tham gia dẫn khách du lịch, làm dịch vụ ngâm chân thảo dược, hộ này mách nước hộ kia phải làm sao để du khách đến với Ít Thái nhiều hơn, ở lại với Ít Thái lâu hơn. Nội quy của bản Tà Sung mới được lập ra với những quy ước như: Giữ vệ sinh môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát tiếng ồn, tôn trọng văn hóa địa phương…

Trên tấm cổng chào đi vào bản là dòng chữ “Đón chào bạn đến thung lũng Khau Phạ” được viết bằng cả tiếng Mông và Tiếng Thái. Trưởng bản Lù Văn Quyết phấn khởi cho biết: Nhờ du lịch cộng đồng mà bà con có thêm nguồn thu nhập, từ dịch vụ lưu trú, dẫn khách, dịch vụ ẩm thực, bán hàng lưu niệm…

Bây giờ bà con nhận thức được trồng lúa không chỉ để lấy nếp, mà còn thu được tiền từ cảnh quan”, giọng trưởng bản Tà Sung mới tươi vui.

Niềm vui của Ít Thái - Tà Sung cũng gợi mở cho Bí thư Lương Văn Thư nhiều kế hoạch. Anh Thư chia sẻ thêm rằng, sau sáp nhập xã Tú Lệ mới đã có 15 doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh, 6 hợp tác xã, 42 tổ hợp tác hoạt động trên các lĩnh vực và hơn 270 hộ cá thể sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Hoạt động của các doanh nghiệp, hợp tác xã đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Song song với phát huy “hương sắc Tú Lệ”, xã cũng đã chủ động liên kết với các địa phương phát triển vùng sản xuất lúa hàng hóa, tạo dựng thương hiệu gạo nếp Tú Lệ, lúa Khau Phạ, cốm Tú Lệ và liên kết hình thành các điểm, tua, tuyến du lịch Suối Giàng - Nghĩa Lộ - Tú Lệ - Cao Phạ - Nậm Khắt - Ngọc Chiến - Nậm Có…

Muốn “đi xa” như vậy thì những giá trị thiên nhiên ban tặng, giá trị văn hóa của đồng bào phải được bồi đắp, tôn vinh. Hương sắc Tú Lệ sẽ bay cao hơn những ngọn núi trên đỉnh đèo Khau Phạ.

Hoàng Anh – Thanh Tiến - Khương Trung
Trương Khánh Thiện
Khương Trung
Thanh Tiến