Bản giao ước xanh giữa người Mạ và rừng Tà Đùng

Vườn quốc gia Tà Đùng có tổng diện tích hơn 20.900 ha được ví như “viên ngọc xanh” của Tây Nguyên, trong đó diện tích rừng tự nhiên chiếm trên 16.000 ha, phần còn lại là đất rừng phục hồi và mặt nước. Điểm nhấn đặc biệt của Vườn là hồ Tà Đùng rộng khoảng 5.000 ha với gần 40 hòn đảo lớn nhỏ, được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên cao nguyên”.

Không chỉ là lá phổi xanh của vùng, rừng Tà Đùng còn là kho tàng đa dạng sinh học bậc nhất Tây Nguyên, giữ vai trò quan trọng trong cân bằng sinh thái và phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Để rừng Tà Đùng hôm nay với màu xanh ngút ngàn thì ngoài lực lượng bảo vệ rừng của vườn còn phải kể đến vai trò của người dân ở những bản làng quanh rừng. Ở nơi đó có những con người gắn bó cả cuộc đời để bảo vệ rừng.

 

 

Hôm nay trời mưa cả ngày nên già làng K’Hô, ngụ bon B’Tong, xã Tà Đùng (tỉnh Lâm Đồng) ở nhà không đi tuần tra rừng cùng lực lượng kiểm lâm. Ngồi trong ngôi nhà sàn, ông nhìn ra triền đồi phủ một màu xanh ngút ngàn. Đôi mắt già nhuốm màu thời gian, nhưng sáng rực khi nhắc đến ba chữ “rừng Tà Đùng”. Già làng K’Hô nhớ lại, cả đời mình gắn bó với đại ngàn này, từ những ngày còn theo cha đi rẫy, rồi trải qua bao mùa mưa nắng, rừng đã nuôi sống biết bao thế hệ người Mạ.

Vườn quốc gia Tà Đùng đang trình đề án du lịch sinh thái để UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt

Vườn quốc gia Tà Đùng đang trình đề án du lịch sinh thái để UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt

Già làng K’Hô và lực lượng kiểm lâm.

Già làng K’Hô và lực lượng kiểm lâm.

Thuở nhỏ, K’Hô đã quen với tiếng gió thổi vi vu trong rừng, với mùi khói lam chiều quyện vào hương nhựa cây. Ông theo cha đi rẫy, đi săn, học cách phân biệt từng loại lá, loài cây và từng dấu chân thú. Tuổi thơ của ông là những ngày rong ruổi khắp sườn núi, hái măng, bắt cá suối, nghe già làng kể chuyện thần rừng, thần suối. Trong tâm khảm cậu bé K’Hô khi ấy, rừng không chỉ là nơi mưu sinh, mà còn là mái nhà linh thiêng nuôi dưỡng hồn người Mạ.

Đến tuổi thanh niên, K’Hô trở thành một chàng trai khỏe mạnh, dẻo dai, giỏi phát nương, trồng lúa rẫy. Ông được bà con tin cậy, thường dẫn đầu những chuyến đi dài vào rừng lấy gỗ làm nhà và tim kiếm lâm sản trong bữa cơm hàng ngày. Mỗi chuyến đi, ông đều dặn mọi người, “chặt một cây phải trồng lại một cây, rừng có còn, bon mới còn”. Chính ý thức đó đã gieo vào cộng đồng một nếp nghĩ “coi rừng là máu thịt, không thể đánh đổi”. Năm 2010, bằng uy tín và sự gương mẫu, K’Hô được bà con tín nhiệm bầu làm già làng. Với ông, chức già làng không chỉ là danh dự, mà còn là lời thề trước rừng rằng “giữ lấy màu xanh là giữ lấy hồn của núi” và ông đã giữ trọn lời thề ấy cho mãi đến hôm nay.

Phong cảnh sương sớm trên đỉnh Tà Đùng với khung cảnh hết sức huyền ảo, bảo trùm bởi sương mù dày đặc hết sức đặc sắc.

Phong cảnh sương sớm trên đỉnh Tà Đùng với khung cảnh hết sức huyền ảo, bảo trùm bởi sương mù dày đặc hết sức đặc sắc.

Trao đổi với chúng tôi, ông K’Hô cho biết, những ngày đầu tham gia bảo vệ rừng, khó khăn chồng chất. Lâm tặc thì rình rập để khai thác gỗ, săn bắt thú rừng. Đêm về, tiếng cưa máy rền vang khắp núi rùng. Nhưng già K’Hô không đơn độc, ông cùng lực lượng kiểm lâm Vườn quốc gia Tà Đùng đi tuần tra khắp triền núi, có khi hàng tuần không về bon. “Rừng cho chúng tôi sự sống, thì chúng tôi phải đứng ra bảo vệ rừng, dù gian nan đến đâu”, già làng K’Hô với vẻ mặt nghiêm nghị nói.

Những buổi đi rừng cùng cán bộ kiểm lâm, già K’Hô luôn vui mừng khi được hướng dẫn cách nhận diện cây rừng quý hiếm, cách phát hiện dấu vết chặt phá, đốt nương. Người kiểm lâm và già làng ngồi cạnh nhau, chia nhau bát cơm vội, kể chuyện rừng. Từ sự đồng hành ấy, tình thân gắn bó như máu thịt, tạo thành một “bản giao ước xanh” không thành văn giữa cộng đồng và Nhà nước. “15 năm trước, khi còn là một cán bộ trẻ mới vào nghề, tôi có lần được đi tuần tra cùng già làng K’Hô. Giữa đêm núi rừng tĩnh mịch, nghe tiếng ông kể về rừng như kể về máu thịt của mình, tôi xúc động vô cùng. Từ ánh mắt già làng, tôi thấy tình yêu rừng không chỉ là lời nói, mà là một niềm tin sống, một sợi dây thiêng liêng gắn với cả đời người. Chính khoảnh khắc ấy đã thôi thúc tôi gắn bó với Tà Đùng, để hôm nay, sau hơn một thập kỷ tôi vẫn giữ trọn lời hứa với rừng xanh”, anh Nguyễn Văn Nên thuộc Hạt Kiểm lâm Tà Đùng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng tâm sự.

Hệ thống thực vật với nhiều giống cây gỗ quý có độ tuổi hàng trăm năm

Hệ thống thực vật với nhiều giống cây gỗ quý có độ tuổi hàng trăm năm

Năm nay đã ngoài 70 tuổi, mái tóc già làng K’Hô bạc trắng như mây phủ đỉnh núi, nhưng dáng người vẫn nhanh nhẹn. Dẫn chúng tôi lội qua từng ngọn đồi, đi giữa từng gốc cây cổ thụ, già như trẻ lại. Đến đâu, ông cũng có kỷ niệm để kể: nơi này từng dựng lán tránh mưa, nơi thì từng bắt gặp dấu chân voi... Dường như từng tấc đất, từng thân cây đều in dấu chân tuổi trẻ của ông.

Với người dân Tà Đùng, già K’Hô không chỉ là già làng, mà còn là biểu tượng của tình yêu rừng, niềm tin bền vững rằng chỉ khi bảo vệ được màu xanh thì bon, làng mới có ngày mai. Từ tuổi thơ rong ruổi giữa đại ngàn, đến thanh xuân cống hiến sức lực, rồi tuổi xế chiều vẫn miệt mài giữ rừng  cả cuộc đời ông là một khúc ca xanh, gắn liền với hơi thở của Tà Đùng. “Nếu không có già làng K’Hô, chắc bà con chúng tôi khó mà giữ được rừng như hôm nay. Già sống giản dị, nói ít làm nhiều, cả đời gắn bó với rừng. Người Mạ chúng tôi coi già như ngọn núi, như cây cổ thụ che chở bon làng”, ông K’Linh một người dân sống ở bon B’Tong, xã Tà Đùng xúc động chia sẻ.

Từ tuổi thơ rong ruổi giữa đại ngàn, đến thanh xuân cống hiến sức lực, rồi tuổi xế chiều già làng K’Hô vẫn miệt mài giữ rừng, cả cuộc đời ông gắn liền với hơi thở của Tà Đùng.

Ông Khương Thanh Long, Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng cho biết, những năm đầu khi triển khai công tác bảo vệ rừng còn nhiều khó khăn bà con chưa quen với các quy định pháp luật. Nhưng nhờ sự uy tín và lời nói của các già làng như K’Hô, cộng đồng đã dần đồng thuận, cùng kiểm lâm bảo vệ từng khoảnh rừng. Giờ đây, mỗi khi bước vào rừng, già làng K’Hô lại chỉ cho lớp trẻ đâu là cây dầu cổ thụ trăm tuổi, đâu là thung lũng nơi chim hồng hoang từng trú ngụ. Với ông, đó không chỉ là tri thức, mà còn là linh hồn được truyền lại từ tổ tiên.

Nếu già làng K’Hô là người thắp ngọn lửa bảo vệ rừng, thì lớp trẻ trong bon B’Tong chính là những người giữ cho ngọn lửa ấy không bao giờ tắt. Anh K’Dởnh con cháu của già làng K’Hô là một trong những gương mặt tiêu biểu, nối tiếp hành trình gìn giữ màu xanh Tà Đùng. Năm 2012, Vườn quốc gia Tà Đùng ký hợp đồng giao khoán cho K’Dởnh quản lý 15 ha rừng. Khi ấy, anh còn trẻ, nhiều bỡ ngỡ, nhưng với lời căn dặn của già làng K’Hô và sự hướng dẫn tận tình của cán bộ kiểm lâm, K’Dởnh nhanh chóng thích nghi.

Mỗi năm, gia đình anh K’Dởnh được nhận khoảng 12 triệu đồng từ chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số tiền ấy không lớn, nhưng với người Mạ, nó mang ý nghĩa động viên to lớn. Từ khoản tiền ấy, K’Dởnh mua sách vở cho con, sửa lại căn bếp, chăm sóc rẫy cà phê, bắp, khoai. Nhưng quan trọng hơn cả, đó là sự khẳng định rõ ràng rằng bảo vệ rừng mang lại lợi ích thiết thực và bền vững.

Không chỉ K’Dởnh, hiện nay Vườn quốc gia Tà Đùng đã triển khai giao khoán cho 148 hộ dân tại các bon làng, với tổng diện tích gần 3.000 ha rừng, mỗi hộ nhận không quá 30 ha. Mỗi héc-ta rừng được chi trả trung bình 800.000 đồng/năm, tùy mức độ bảo vệ và diện tích giao khoán. Số tiền này trở thành nguồn thu ổn định cho người dân, giúp họ gắn bó hơn với nhiệm vụ bảo vệ rừng. Thực tế cho thấy, chính sách giao khoán rừng không chỉ đem lại thu nhập mà còn nâng cao trách nhiệm cộng đồng.

Người Mạ vốn gắn bó với rừng bằng niềm tin tâm linh, nay thêm cơ chế hỗ trợ cụ thể, lại càng có lý do để giữ rừng. Bởi rừng không chỉ cho hơi thở, cho môi trường trong lành mà rừng còn ban lộc từ măng, nấm hương, thảo dược…đến nguồn nước suối mát lành quanh năm cho người dân uống hàng ngày, tưới tắm cho những cánh đồng bất tận. “Trước đây, bà con nghĩ giữ rừng là việc của kiểm lâm. Nhưng giờ chúng tôi nhận khoán, có trách nhiệm, có quyền lợi rõ ràng. Giữ rừng cũng là giữ nhà, giữ nương, giữ suối cho con cháu”, anh K’Dởnh tự hào chia sẻ.

Với hệ sinh thái đa dạng cộng với văn hoá đặc sắc Tà Đùng có thể trở thành điểm nhấn du lịch xanh của Tây Nguyên

Với hệ sinh thái đa dạng cộng với văn hoá đặc sắc Tà Đùng có thể trở thành điểm nhấn du lịch xanh của Tây Nguyên

Ông Trần Quốc Toàn, phụ trách Trạm Kiểm lâm số 1, Hạt Kiểm lâm Tà Đùng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng cho biết, vai trò của những hộ nhận khoán rừng, trong đó có anh K’Dởnh, rất quan trọng trong công tác bảo vệ rừng tại địa bàn. Trong những năm qua, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa bà con và kiểm lâm, nhiều vụ vi phạm lâm luật tại Tà Đùng đã được phát hiện kịp thời. “Chỉ tính riêng năm 2024, lực lượng kiểm lâm Tà Đùng cùng người dân nhận khoán đã phát hiện hàng chục vụ xâm hại rừng, trong đó có không ít vụ khai thác gỗ trái phép được ngăn chặn ngay từ đầu và một khi người dân gắn bó trực tiếp với rừng, họ trở thành những tai mắt quan trọng, giúp kiểm lâm nắm bắt tình hình nhanh hơn”, ông Toàn chia sẻ.

Cũng theo ông Toàn, bất cứ dấu vết nào như đường mòn mới mở, tiếng cưa lạ hay dấu chân nghi ngờ đều được bà con báo tin, từ đó lực lượng chức năng kịp thời vào cuộc. Cũng nhờ sự chung sức này, nhiều diện tích rừng đã được giữ nguyên vẹn, hạn chế tối đa nguy cơ mất rừng, qua đó khẳng định hiệu quả rõ rệt của chính sách giao khoán và sự đồng hành giữa cộng đồng với Nhà nước trong bảo vệ rừng Tà Đùng.

Theo thống kê của Vườn quốc gia Tà Đùng, sau hơn 10 năm triển khai giao khoán, diện tích rừng ở Tà Đùng cơ bản được giữ vững, tình trạng xâm hại giảm hẳn so với trước. Ở nhiều bon làng, bà con còn tự nguyện lập tổ tuần tra, phối hợp chặt chẽ với kiểm lâm để kịp thời phát hiện, ngăn chặn lâm tặc. Nhiều người dân đã coi việc bảo vệ rừng như một nghề song hành cùng sản xuất nông nghiệp.

Chính sách giao khoán và chi trả dịch vụ môi trường rừng đã chứng minh sức mạnh của sự đồng hành. Mỗi người dân trở thành một mắt xích, một cánh tay nối dài của lực lượng kiểm lâm. Từ đó hình thành một chân lý giản dị và bền vững là “rừng còn xanh thì đời sống người Mạ còn no ấm, người Mạ còn gắn bó yêu rừng thì đại ngàn Tà Đùng sẽ mãi xanh ngát, che chở và nuôi dưỡng chính những con người đã hết lòng gìn giữ nó”.

 

 

Trong sâu những cánh rừng già Tà Đùng, kho tàng thiên nhiên mới thực sự làm nên linh hồn của vùng đất này. Theo thống kê của Vườn quốc gia Tà Đùng, hiện nơi đây có hơn 1.400 loài thực vật bậc cao, trong đó nhiều loài gỗ quý hiếm như pơ mu, thông nàng, giổi và đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Hệ động vật cũng đặc biệt phong phú với hơn 300 loài, trong đó có voọc chà vá chân đen, cu li nhỏ, hồng hoang, niệc nâu…những loài được xem là “báu vật” của rừng già. “Nếu chỉ có lực lượng kiểm lâm thì rất khó bảo vệ được trọn vẹn kho báu sinh học này. Chính sự gắn bó, đồng hành của đồng bào Mạ những người đã coi rừng là máu thịt mới tạo nên thành công hôm nay”, ông Khương Thanh Long, Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng chia sẻ.

Cũng theo ông Long, từ bao đời, rừng Tà Đùng trong tâm thức của người Mạ không chỉ là nơi cung cấp gỗ, măng, thú rừng, mà còn là chốn linh thiêng gắn với tín ngưỡng và lịch sử cộng đồng. Vì thế, khi cùng lực lượng kiểm lâm tham gia bảo vệ, bà con không chỉ làm vì chính sách hay lợi ích kinh tế, mà còn làm từ tình yêu và niềm tự hào. “Mỗi gốc cây, mỗi bờ suối đều in dấu chân của họ qua nhiều thế hệ. Và cũng từ sự gắn bó đó, các loài động thực vật quý hiếm mới có cơ hội tồn tại, để Tà Đùng không chỉ là biểu tượng cảnh quan mà còn là minh chứng cho sức mạnh cộng đồng trong công cuộc bảo vệ lá phổi xanh của Tây Nguyên”, ông Long chia sẻ.

Hệ thống động vật với nhiều loại đặc hữu quý hiếm được bảo vệ nghiêm ngặt

Hệ thống động vật với nhiều loại đặc hữu quý hiếm được bảo vệ nghiêm ngặt

Ông Lê Trọng Yên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng cho rằng, mô hình phối hợp giữa Vườn quốc gia Tà Đùng và cộng đồng dân tộc thiểu số đã chứng minh hiệu quả. Đây là cách làm bền vững, vừa bảo vệ rừng, vừa gắn kết quyền lợi của người dân. Tới đây, tỉnh sẽ tiếp tục nhân rộng, coi đây là một trong những giải pháp trọng tâm để bảo tồn rừng. “Tà Đùng không chỉ có giá trị bảo tồn mà còn mang tiềm năng du lịch sinh thái đặc biệt. Với cảnh quan được mệnh danh là Vịnh Hạ Long trên cao nguyên, hệ sinh thái đa dạng, bản sắc văn hóa Mạ, M’nông độc đáo, Tà Đùng có thể trở thành điểm nhấn kết nối du lịch xanh của Tây Nguyên”, ông Yên nhấn mạnh.

Tuy nhiên, để phát triển du lịch bền vững, điều kiện tiên quyết là bảo vệ rừng thật tốt, bởi rừng chính là nền tảng, là linh hồn của mọi giá trị. Vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, lực lượng kiểm lâm và cộng đồng tiếp tục là chiếc chìa khóa để mở ra con đường phát triển lâu dài cho Tà Đùng. Từ câu chuyện của già K’Hô đến thế hệ K’Dởnh, người Mạ ở Tà Đùng đã chứng minh bảo vệ rừng không chỉ là nhiệm vụ, mà là bản sắc, là lời thề thiêng liêng truyền đời. Rừng Tà Đùng trong tâm thức của họ không chỉ là kho báu vật chất, mà còn là chốn linh thiêng nơi cư ngụ của thần núi, thần suối, nơi lưu giữ ký ức bao đời. Người Mạ tin rằng yêu rừng thì rừng sẽ cho lộc, giữ rừng thì rừng sẽ che chở, nuôi sống con người. Và thực tế đã chứng minh, rừng cho họ dòng nước mát, cho đất đai màu mỡ, cho sản vật dồi dào, cho không khí trong lành, cho cả niềm tự hào để truyền lại cho thế hệ sau.

Video

Ngày nay, những “bản giao ước xanh” tuy không được ghi trên giấy, nhưng đã in sâu trong trái tim mỗi người dân bon B’Tong. Giữa cộng đồng và lực lượng kiểm lâm, giữa người dân và lãnh đạo Vườn quốc gia Tà Đùng, tình gắn bó ngày càng bền chặt. Đó là mối liên kết không thể tách rời, cùng nhau tạo nên một mái nhà chung Tà Đùng xanh ngát. Ở đó, quá khứ, hiện tại và tương lai hòa quyện, họ viết tiếp câu chuyện thiêng liêng về tình yêu rừng. Chính từ tình yêu ấy, Tà Đùng không chỉ đứng vững trước những biến động, mà còn tỏa sáng như biểu tượng của niềm tin, của sự chung tay, của ước vọng về một màu xanh bất tận cho đại ngàn Tây Nguyên hùng vỹ.

Phạm Hoài – Phương Chi
Tùng Quân
Phạm Hoài
Phương Chi