Việt Nam vốn là quốc gia dẫn đầu khu vực về giảm thiểu rủi ro thiên tai, được thể hiện thông qua những bước tiến mạnh mẽ hướng tới tự chủ trong công tác chuẩn bị và ứng phó với thiên tai. Tuy nhiên, khi quy mô thiên tai vượt quá khả năng kiểm soát của địa phương hoặc quốc gia, sự hỗ trợ từ bên ngoài vẫn là yếu tố không thể thiếu.
Theo bà Đoàn Thị Tuyết Nga, Trưởng phòng Hợp tác quốc tế, Cục Đê điều và Phòng, chống thiên tai, xét ở quy mô gia đình, dù một gia đình có điều kiện kinh tế đầy đủ, nhưng khi bất ngờ gặp phải biến cố khiến cuộc sống rơi vào khó khăn trong thời gian ngắn, thì sự hỗ trợ từ những người xung quanh là vô cùng cần thiết. Trên thực tế, sự giúp đỡ của hàng xóm và cộng đồng không chỉ dừng lại ở hỗ trợ vật chất trong thời điểm đặc biệt, mà còn là nguồn động viên tinh thần, tiếp thêm niềm tin để các gia đình có thể đứng dậy nhanh hơn sau mất mát.
Chính tinh thần tương thân tương ái ấy là lý do vì sao sự hỗ trợ quốc tế đối với Việt Nam mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Trong những thời điểm khẩn cấp, khi nguồn lực quốc gia bị dồn ép, sự chung tay từ cộng đồng quốc tế không chỉ giúp vượt qua thiên tai, mà còn khẳng định rằng trong khó khăn, tình người là sức mạnh lớn nhất.
Chính phủ Nhật Bản và IOM khởi công xây dựng Nhà tránh trú cộng đồng. Ảnh: KC.
Từ góc nhìn toàn cầu của IOM, bà Mitsue Pembroke, Giám đốc dự án và Quan hệ đối tác, Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) tại Việt Nam nhận thấy rằng việc đầu tư vào công tác chuẩn bị, lấy cộng đồng làm trung tâm; các giải pháp do địa phương chủ trì là vô cùng quan trọng.
"Hệ thống cảnh báo sớm thực sự rất quan trọng. Nhưng thực tế vẫn có những người không sử dụng điện thoại thông minh hoặc không thể truy cập Internet", bà nói và đề xuất thêm, khi xây dựng hệ thống cảnh báo sớm sẽ cần tính đến điều này để không bỏ sót những nhóm dễ bị tổn thương - như người di cư trong vùng, những người phải di dời tạm thời hay những người không có điện thoại thông minh.
Thêm vào đó, tích hợp tính di động vào kế hoạch phục hồi. Đơn cử ở Philippines và Bangladesh, IOM đã hỗ trợ các chính phủ trong việc lập bản đồ rủi ro đối với những cộng đồng phải di dời, cũng như lập kế hoạch sơ tán và trú ẩn, tận dụng dữ liệu có sẵn từ trước. Theo bà, đây cũng là kinh nghiệm tốt khác mà Việt Nam có thể cân nhắc áp dụng.
Bảo đảm tiếng nói và trải nghiệm sống của nhóm dễ bị tổn thương: phụ nữ, thanh niên và đồng bào dân tộc thiểu số là dữ liệu giúp chính phủ hoạch định chính sách phù hợp. Ảnh: KC.
Cuối cùng, khả năng phục hồi không chỉ nằm ở cơ sở hạ tầng và hệ thống. Nó còn nằm ở con người và ở việc bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau. Do Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng, củng cố hệ thống an sinh xã hội, vẫn còn nhiều dư địa để đẩy mạnh hơn nữa lĩnh vực này, kết nối với ứng phó thiên tai thông qua tài chính khí hậu, cũng như đầu tư vào sinh kế bền vững trong giai đoạn phục hồi.
Cứu trợ khẩn cấp là một cách tiếp cận, nhưng người dân vẫn cần được hỗ trợ để phục hồi về lâu dài. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục đầu tư vào giảm thiểu rủi ro thiên tai ở Việt Nam.
Trên hết, bà Mitsue Pembroke kiến nghị Việt Nam cần đặt mục tiêu bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, thanh niên và đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm tiếng nói và trải nghiệm sống của họ sẽ là dữ liệu giúp chính phủ hoạch định chính sách phù hợp.















