Cấp nước sạch ở nông thôn còn khó khăn
Theo Sở NN-MT TP Đà Nẵng, sau hợp nhất, tỷ lệ hộ dân nông thôn của thành phố mới sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn của Bộ Y tế chỉ đạt tỷ lệ hơn 60%. Con số này vẫn còn khá khiêm tốn so với yêu cầu nâng cao chất lượng hạ tầng và các tiêu chí của chương trình xây dựng nông thôn mới.
Nguyên nhân chính xuất phát từ việc chưa hoàn tất công tác bàn giao các công trình cấp nước sạch theo quy định về quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước. Riêng địa bàn Quảng Nam (cũ) có tới 468 công trình, trong khi Đà Nẵng (cũ) có 13 công trình, nhưng quá trình rà soát và chuyển giao vẫn chưa được triển khai đầy đủ, khiến nhiều hạng mục bị bỏ trống quản lý, vận hành kém hiệu quả.

Người dân miền núi, nông thôn Đà Nẵng gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn nước sạch. Ảnh: Lan Anh.
Phần lớn các công trình cấp nước hiện nay là hệ thống nước tự chảy, quy mô nhỏ, công nghệ thô sơ, hệ thống lọc nước đơn giản, không đảm bảo chất lượng, đặc biệt vào mùa mưa.
Nhiều công trình hư hỏng, xuống cấp do tác động của mưa lũ, trong khi đó, việc duy tu, bảo dưỡng và kiểm định chất lượng chưa được thực hiện thường xuyên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả cung cấp nước sạch cho người dân.
Các trạm cấp nước như Sơn Trà, Hải Vân, Khe Lạnh và các trạm cấp nước nông thôn phải giảm công suất hoặc ngưng hoạt động vào mùa hè do nguồn nước bị cạn kiệt; độ đục tăng cao, bị lũ cuốn trôi ống thu, ống dẫn nước... vào mùa mưa, gây khó khăn cho công tác xử lý và cấp nước.
Một số nhà máy nước vẫn gặp khó khăn do tình trạng nhiễm mặn, hạ thấp mực nước các sông. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn còn sử dụng nước từ sông, suối và các giếng khoan gia đình. Mỗi khi có nắng hạn gay gắt, nhiều hộ dân thiếu nước sinh hoạt...
Đầu tư đồng bộ các công trình cấp nước sạch
Theo Phó Giám đốc Sở NN-MT TP. Đà Nẵng Trương Xuân Tý, trong 5 năm tới, thành phố quyết tâm, phấn đấu nâng tỷ lệ này lên 80%. Để đạt mục tiêu này, chính quyền thành phố đã và đang tập trung đẩy nhanh tiến độ bàn giao và quản lý các công trình cấp nước sạch theo đúng quy định, đồng thời lập kế hoạch chi tiết về phát triển hệ thống cấp nước tại các khu vực nông thôn và miền núi.
Song song với đó, thành phố sẽ đầu tư nâng cấp các công trình cấp nước tập trung, hiện đại hóa hệ thống xử lý, ưu tiên các khu vực dân cư đông và có nhu cầu cao, đảm bảo chất lượng nước đáp ứng đầy đủ 41 chỉ tiêu kỹ thuật theo quy định mới.
Một hướng đi quan trọng khác là huy động tối đa nguồn lực từ Trung ương, địa phương và cộng đồng dân cư, kết hợp với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để đầu tư đồng bộ các công trình cấp nước sạch. Thành phố cũng tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân thay đổi thói quen sử dụng nước suối, nước giếng, chuyển sang sử dụng nguồn nước đã qua xử lý đạt chuẩn để bảo vệ sức khỏe và phòng ngừa dịch bệnh.
Đồng thời, Đà Nẵng chú trọng xã hội hóa trong lĩnh vực cấp nước sạch, mở rộng các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư, đặc biệt tại những khu vực vùng sâu, vùng xa vốn có chi phí đầu tư cao nhưng nhu cầu sử dụng ngày càng lớn.

Đà Nẵng tiếp tục đầu tư các nhà máy, trạm xử lý để mở rộng mạng lưới cấp nước sạch cho người dân. Ảnh: Lan Anh.
Việc tăng cường quản lý, giám sát chất lượng nước sau đầu tư cũng được đặt lên hàng đầu, nhằm đảm bảo các công trình cấp nước hoạt động bền vững, tránh tình trạng xuống cấp nhanh, gây lãng phí nguồn lực. Đây là một yếu tố then chốt quyết định hiệu quả lâu dài của các dự án, đồng thời tạo nền tảng vững chắc để thành phố đạt các tiêu chí về nước sạch trong xây dựng nông thôn mới.
Sở Xây dựng cho biết, sau sáp nhập, TP. Đà Nẵng ưu tiên nâng tỷ lệ cấp nước sạch cho khu vực nông thôn, nhất là khu vực miền núi. Cụ thể, thành phố đôn đốc đầu tư các trạm xử lý nước công suất 2.000 m3/ngày; phát triển mạng lưới cấp nước cho các thôn Tà Lang, Giàn Bí, Nam Mỹ... (P. Hải Vân); vận hành Nhà máy nước Hòa Liên và tháo gỡ khó khăn 2 dự án nhà máy nước sạch Bắc Trà My (xã Trà My), Trung Phước (xã Quế Sơn)...
Trong lộ trình đầu tư các nhà máy cấp nước theo quy hoạch, địa phương ưu tiên đầu tư Nhà máy nước Phú Thuận (công suất 7.000 m3/ngày) phục vụ cho vùng B Đại Lộc trước đây; nâng công suất Nhà máy nước Ái Nghĩa lên 10.000 m3/ngày.