Vòng vây ô nhiễm
Nắng trưa tháng Năm ở Sài thành như “hắt” lửa vào mặt. Dưới vòm trời xanh ngắt, đứng trên cầu Chánh Hưng và cầu Chữ Y quận 8, TP.HCM hướng về hai bờ kênh Đôi, hình ảnh đập vào mắt là những cụm lục bình tua tủa hoa tím lặng lẽ trôi theo dòng nước đen ngòm.
Nhiều đoạn ở kênh Đô, rác thải đặc quánh vây quanh những trụ bê tông, cọc gỗ đang thay thế nền móng của những ngôi nhà lụp xụp - một nửa nằm trên bờ, phần còn lại nằm hẳn trên mặt nước. Mỗi khi sà lan tải trọng lớn lướt qua, dòng nước càng thêm đục ngầu, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc.

Nhà "cao cẳng" sống chung với mùi hôi thối ô nhiễm của kênh Đôi. Ảnh: Đình Du.
Có đi mới biết, có tận mới tường. Những người dân chưa di dời ở bên bờ kênh Đôi phần lớn họ e ngại khi tiếp xúc với người lạ. Bởi họ lo âu nhiều thứ. Tâm trạng họ luẩn quẩn vì sắp phải rời cái nơi từng “chôn nhau cắt rốn”, rồi khi nhận tiền đền bù xong thì mới tự tin tìm nhà dành cho người thu nhập thấp để trút hầu bao.
Thấy có người đồng cảm thực sự, họ niềm nở chia sẻ tất tần tật về cuộc đời mình bao năm sinh sống bên kênh Đôi. Trong căn nhà ọp ẹp dựng bằng những miếng ván gỗ, rộng khoảng 70m2, ngoài vật dụng sinh hoạt, dì Ba kê mấy cái bàn nhựa để khách tới uống cà phê. Nhà nóng như “lò than”, dì Ba cặm cụi rửa đống phin cà phê, ly thủy tinh. Vừa công việc, vừa tâm tình, thi thoảng dì Ba với tay ra sau lưng vỗ vỗ vào cái lưng còng của mình như để minh họa cho vị khách không mời mà tới hình dung ra những cái nghề... "quái dị" trong quá khứ đã khiến cơ thể bà bị di chứng ở tuổi xế chiều. Dì kể lặng lẽ, chậm rãi, khiến chúng tôi hình dung cuộc đời bà cũng như mớ lục bình trôi lẳng lặng trên sông...

Dì Ba kể về cuộc đời mình như mớ lục bình trôi. Ảnh: Đình Du.
Dõi mắt về kênh Đôi, dì Ba lời rằng, ở những thập niên 80 - 90 của thế kỷ trước, khắp Sài thành tràn lan dân “móc bọc” với già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu. Những người hành nghề trang bị một thanh sắt dài khoảng 60 phân, một đầu uốn cong chuốt nhọn. Trên lưng khoác một bao tải bằng nhựa, họ rảo khắp hang cùng ngõ hẻm để lục lọi, săn tìm các loại bao nilon còn mới bị vứt bỏ.
Các vựa thu mua bao nilon thuê người mang xuống dòng kênh giặt sạch, phơi khô rồi bán lại cho các cơ sở tái chế. Ở hai bờ kênh Đôi ngày ấy, cứ khoảng 16 giờ chiều là người người lội xuống giặt bao nilon để kiếm tiền đong gạo. Cúi gập người xuống dòng kênh, làm miết bao nhiêu năm, để rồi năm tháng tuổi già ập tới đã khiến cái lưng của dì Ba còng hẳn lúc nào không hay.
Người dân ở đôi bờ kênh này còn mắc phải bệnh "điếc mũi", bởi suốt hàng chục năm, họ phải ngửi thứ mùi xú uế nơi kênh Đôi oằn mình chịu đựng từ những bao nilon bẩn.
“Chén cơm”… ở đáy sông
Nghề "móc bọc" tồn tại một thời gian dài, sau đó, hình thành các cơ sở nấu tái chế nhựa cũng xả thải trực tiếp xuống dòng kênh. Chính quyền ngày ấy yêu cầu những đơn vị này phải di dời ra xa khu dân cư hoặc phải đóng cửa nên nghề này dần biến mất.

Nhà hai bên đường Nguyễn Duy song song với kênh Đôi sẽ giải tỏa để nhường chỗ cho chỉnh trang đô thị. Ảnh: Đình Du.
Cái nghề tổn hại sức khỏe ấy ngày nay chỉ còn trong ký ức của những người ở tuổi “gần đất xa trời” sinh sống ở hai bờ kênh Đôi. Thi thoảng mới bắt gặp dấu tích còn lưu lại “bệnh nghề nghiệp” trên lưng của những người như dì Ba.
Kênh Đôi bị thải rác suốt nhiều thập kỷ rồi bồi lắng, không được nạo vét thường xuyên, dòng nước lẫn lòng kênh ngày càng thu hẹp, ô nhiễm trầm trọng. Những năm gần đây, ghe, tàu tải trọng lớn khó khăn đi lại trên kênh, kéo theo nhiều nghề mưu sinh của cư dân trên dòng kênh đã mất hẳn. Nhưng “cơm áo gạo tiền” không đùa với... dân nghèo. Nghề này mất thì nghề khác bỗng dưng đến với họ.
Kênh Đôi quả là lạ! Đen ngòm, “thối hoắc”…nhưng lại sản sinh ra một loại giun nước, một thời từng là “miếng cơm” cho bao cư dân ở Sài thành có kế sinh nhai. Đó là trùn chỉ. Cái lạ là trùn chỉ sống tập trung ở trong trầm tích tại các vùng nước chảy không quá nhanh và ô nhiễm như: Cống, rãnh, mương, kênh... Sở dĩ trùn chỉ sinh sống những nơi ô nhiễm vì ở đó có nhiều trầm tích hữu cơ làm thức ăn. Ở các dòng kênh ô nhiễm nặng, trùn chỉ cũng ít gặp phải các loài cá thiên địch, vì cá hầu như khó sinh sống trong môi trường độc, bẩn quá mức.

Nghề bắt trùn chỉ tự nhiên hiếm hoi lắm mới được bắt gặp ở kênh rạch Sài thành. Ảnh: Đình Du.
Từ khi phong trào nuôi cá cảnh phát triển mạnh, trùn chỉ là món khoái khẩu của các loài cá cảnh. Do đó, nhu cầu về trùn chỉ tăng vọt. Nghề đãi trùn chỉ “sống mạnh” kể từ đó. Dụng cụ hành nghề chỉ có chiếc vợt bằng vải mùng cùng vài cái thau nhựa với chiếc xe máy cà tàng. Hàng ngày họ lượn lờ khắp đôi bờ kênh Đôi, đến chỗ nào ô nhiễm nhất là vác cái vợt, cái thau lội xuống...kiếm “chén cơm” no bụng. Tuy nhiên, từ khi việc lai tạo nhân giống nuôi trùn chỉ thành công đã khiến người bắt trùn trên kênh rạch ở Sài thành gần như bỏ nghề.
Tuyệt chủng nghề “điếc mũi”
Những ngày lang thang thực hiện tuyến bài, vô tình chúng tôi bắt gặp hình ảnh người bắt trùn chỉ tự nhiên hiếm hoi còn sót lại. Đứng giữa vòng vây của sự ô nhiễm, anh Linh ngâm mình hụp người dưới dòng nước đen ngòm để xúc trùn đang ẩn mình dưới lớp bùn nhầy nhụa.
“Bắt trùn chỉ tuy vất vả nhưng đủ sống qua ngày. Nghề này gần như “tuyệt chủng”, vì phải đánh đổi nhiều bệnh tật và cạnh tranh không lại với các trang trại nuôi trùn chỉ thương mại. Mỗi ngày ngâm mình dưới nước, ngửi mùi ô nhiễm nước sông nên tôi bị bệnh viêm xoang và đau phổi”, anh Linh nói.

Dòng nước đen ngòm, cá tôm gần như "tuyệt chủng", người dân giăng lưới "cầu may". Ảnh: Đình Du.
Những người mưu sinh nghề trùn chỉ sợ nhất mỗi khi “ông trời khóc”. Bởi mỗi khi mưa xuống, nước loãng, trùn chỉ bị cuốn trôi theo dòng chảy. Vì vậy, họ để ý con nước từng nhánh sông lên xuống chứ không phải bạ đâu hụp lặn đó. Để tìm trùn chỉ, người bắt dùng cây sào tre rà một đoạn dọc bờ kênh, nếu trùn bám nhiều vào đầu sào thì họ mới xuống đãi. Kênh Đôi ngày trước từng được mệnh danh là…“vương quốc” trùn chỉ. Nhưng giờ đây dòng kênh ô nhiễm nặng, trùn chỉ cũng... thoái hóa dần.
Để mưu sinh trên dòng kênh ô nhiễm nhất nhì ở Sài thành, người dân sinh sống ven kênh Đôi vật lộn đủ thứ nghề, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng.