Kinh tế tăng trưởng cần động lực từ công nghiệp xanh
Theo Bộ Tài chính, tăng trưởng GDP năm 2025 được dự báo đạt 8,5%, tiếp tục duy trì đà phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế sau đại dịch Covid-19. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ rệt, với khu vực công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 80,5%. Trong đó, ngành năng lượng, hạ tầng cốt lõi của mọi hoạt động sản xuất đang cho thấy sự chuyển biến mạnh theo hướng xanh và bền vững.
Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng nguồn cung điện quốc gia đã tăng gấp ba lần, từ 4,9% năm 2020 lên 15% năm 2025. Các nguồn điện gió, mặt trời, sinh khối đang dần thay thế năng lượng hóa thạch, phản ánh quyết tâm của Việt Nam trên lộ trình xanh hóa nền kinh tế. Cùng với đó, diện tích các khu công nghiệp trên cả nước mở rộng nhanh, từ 117.300 ha năm 2020 lên 140.000 ha năm 2025, tạo không gian cho các dự án công nghiệp sạch và đầu tư công nghệ cao.
  Việc đầu tư hệ thống điện gió, điện mặt trời giúp các khu công nghiệp chủ động nguồn năng lượng sạch và góp phần giảm phát thải. Ảnh: Trung Nguyên.
Cùng với mở rộng quy mô năng lượng tái tạo, hệ thống khu công nghiệp trên toàn quốc cũng tăng nhanh, từ 117,3 nghìn ha (2020) lên 140 nghìn ha (2025). Hai vùng công nghiệp trọng điểm là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng đã hình thành rõ nét, trở thành các trung tâm công nghiệp năng động, đóng vai trò đầu tàu thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Sơn, Vụ Tài chính - Kinh tế ngành (Bộ Tài chính), chính sách công nghiệp hóa của Việt Nam đang thiếu chiến lược tổng thể gắn với mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp tiên tiến theo hướng xanh hơn. Khung chính cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, thiếu linh động trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu tăng mạnh và diễn biến phức tạp. Nhu cầu điện tăng nhanh cũng gây áp lực lên khả năng cung ứng, hệ thống điện gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu năng lượng cho nền kinh tế số.
Theo ông John Rockhold, Trưởng Nhóm Công tác Điện và Năng lượng, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) động lực tăng trưởng tiếp theo của Việt Nam dựa trên sản xuất công nghệ cao, trung tâm dữ liệu đến hạ tầng AI, tạo ra tín hiệu thực tế và thu hút sự quan tâm của giới đầu tư. Nhưng cần lưu ý, những ngành công nghiệp này dựa rất nhiều vào chất lượng của nguồn điện. Một sự gián đoạn ngắn cũng có thể đồng nghĩa với tổn thất tài chính đáng kể hoặc thời gian ngừng hoạt động ngoài kế hoạch. Do đó, việc xây dựng một trụ đỡ năng lượng đã trở thành nền tảng cho an ninh kinh tế quốc gia.
Chuyển đổi năng lượng - chìa khóa xanh hóa công nghiệp
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách lớn nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo. Luật Điện lực (sửa đổi), Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và các nghị định hướng dẫn đã mở ra hành lang pháp lý cho dòng đầu tư xanh.
Nhờ đó, hạ tầng năng lượng được nâng cấp từng bước. Tuy nhiên, nhu cầu vốn đầu tư vẫn rất lớn, ước tính khoảng 136 tỷ USD trong 5 năm tới (tương đương 27 tỷ USD/năm). Nhiều dự án, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, vẫn chậm tiến độ so với quy hoạch, đe dọa nguy cơ thiếu điện giai đoạn 2025–2030 nếu không có giải pháp đột phá về huy động nguồn lực. Các cơ quan phải nhanh chóng hoàn thành tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế cản trở phát triển ngành năng lượng.
Bên cạnh đó, cần khẩn trương ban hành quy định hạn ngạch phát thải carbon, triển khai thị trường Chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC), cơ chế đặc thù phát triển điện gió ngoài khơi và cơ chế đặc thù xử lý dứt điểm những vướng mắc khó khăn với các dự án điện mặt trời, điện gió... Qua đó, đảm bảo thay thế dần nguồn năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển công nghệ sạch.
Ông Lê Tuấn Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính – Kinh tế ngành (Bộ Tài chính) cho biết: Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới. Đây là một giai đoạn đòi hỏi sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng mạnh mẽ, gắn kết chặt chẽ giữa ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển xanh, và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Trong quá trình đó, chuyển dịch năng lượng không chỉ là yêu cầu tất yếu để bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư chất lượng cao.
Khi điện mặt trời, điện gió, thủy điện tích năng và hydro xanh được đầu tư mạnh mẽ, cơ cấu năng lượng quốc gia sẽ “xanh” hơn, giảm phụ thuộc vào than và dầu khí. Quá trình này tạo hiệu ứng dây chuyền: doanh nghiệp công nghiệp giảm chi phí phát thải, nâng cao năng suất, đồng thời dễ dàng tiếp cận các dòng vốn đầu tư xanh và ưu đãi thuế carbon. Đây có thể coi là bước đi mở đường để công nghiệp xanh tăng tốc, đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Tăng tốc thể chế và tài chính xanh
Để tháo gỡ nút thắt và thúc đẩy công nghiệp xanh, đại diện Bộ Tài chính đề xuất cần lồng ghép các mục tiêu chuyển đổi xanh vào Chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hoàn thiện cơ chế tài chính và chính sách chuyển giao công nghệ phục vụ cho sản xuất xanh. Việc thực thi Nghị quyết số 57-NQ/TW (ngày 22/12/2024) cần được cụ thể hóa bằng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giảm sử dụng tài nguyên, tiết kiệm năng lượng và cắt giảm phát thải thực chất hơn
  Chuyển đổi năng lượng giúp xanh hóa cơ cấu nguồn năng lượng quốc gia, giúp doanh nghiệp công nghiệp yên tâm đáp ứng các yêu cầu sản phẩm xanh từ thị trường. Ảnh: Trung Nguyên.
Song song, việc nâng cao nhận thức về chuyển đổi xanh và trách nhiệm ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động là yêu cầu cấp thiết. Cần tạo mạng lưới hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học để đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch công nghiệp xanh trong tương lai.
Cùng với hoàn thiện khung pháp lý phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam, việc đa dạng hóa các nguồn tín dụng xanh thông qua hợp tác với hệ thống ngân hàng sẽ giúp cung cấp các khoản hỗ trợ, trái phiếu và vốn đầu tư xanh; đồng thời, thu hút dòng vốn FDI xanh thông qua các ưu đãi chuyên biệt và dịch vụ xúc tiến đầu tư đạt chuẩn quốc tế theo mô hình “một cửa”.
Mặt khác, Bộ Tài chính đang phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon, hướng tới vận hành chính thức vào năm 2028. Đây sẽ trở thành một công cụ tài chính quan trọng giúp doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị xanh toàn cầu.






























