| Hotline: 0983.970.780

Thứ Tư 21/06/2023 , 14:04 (GMT+7)

Chung sức xây dựng cộng đồng Chăm Islam giáo đoàn kết, phát triển

Thứ Tư 21/06/2023 , 14:04 (GMT+7)

(TN&MT) - Cộng đồng người Chăm Islam, hay còn gọi là người Chăm theo đạo Hồi ở Việt Nam sinh sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ việc làm từ các tổ chức chính trị - xã hội cũng như cộng đồng Islam giáo, đời sống kinh tế - xã hội của người Chăm Islam đã có những thay đổi rõ nét cả vật chất lẫn tinh thần, bắt nhịp với xu thế phát triển của đất nước.

Công tác tín ngưỡng tôn giáo

Chung sức xây dựng cộng đồng Chăm Islam giáo đoàn kết, phát triển

Khánh Ly {Ngày xuất bản}

(TN&MT) - Cộng đồng người Chăm Islam, hay còn gọi là người Chăm theo đạo Hồi ở Việt Nam sinh sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ việc làm từ các tổ chức chính trị - xã hội cũng như cộng đồng Islam giáo, đời sống kinh tế - xã hội của người Chăm Islam đã có những thay đổi rõ nét cả vật chất lẫn tinh thần, bắt nhịp với xu thế phát triển của đất nước.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, cộng đồng người Chăm Islam hiện có khoảng 72.000 tín đồ (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam). Khảo sát thực tế của Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho thấy, hiện nay, các tỉnh, thành vùng Nam bộ có cộng đồng Chăm Islam đang sinh sống là: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Kiên Giang, Tây Ninh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh. Riêng Hà Nội có một cộng đồng nhỏ theo Islam, sinh hoạt tại thánh đường số 12 phố Hàng Lược.

anh-4.jpg
Cộng đồng Islam giáo ở Tây Ninh. Ảnh: Hương Nguyễn

Theo TS Nguyễn Thị Quế Hương (chuyên gia Viện Nghiên cứu Tôn giáo), là một trong những cộng đồng tộc người ở Việt Nam, người Chăm đã sinh sống trên dải đất miền Trung, Việt Nam từ lâu. Trải qua thời gian cũng với thăng trầm lịch sử, người Chăm Islam đã di cư sang các nước xung quanh. Mãi đến cuối thế kỷ XIX, quá trình giao thương ở vùng Nam bộ với bên ngoài ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho người Chăm Islam gốc Việt từ Malaysia và Indonesia nhập cư trở lại vùng đất này, dần hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Islam giáo ở TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Tây Ninh…. Trong quá trình phát triển, người Chăm Islam có sự giao thoa, hội nhập với các tộc người khác ở trong nước và quốc tế. Từ đó, tạo ra những nét văn hóa đặc sắc riêng của cộng đồng này và có nhiều điểm tương đồng với văn hóa dân tộc Việt Nam.

Phần lớn cộng đồng Chăm Islam sống ở nông thôn nhiều hơn thành thị, nên công việc chính của họ là nghề nông và nghề tự do, buôn bán nhỏ lẻ... Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước và của cộng đồng Islam giáo trong nước, quốc tế, cộng đồng Chăm Islam trong những năm gần đây đã có những bước chuyển mình, chủ động hội nhập kinh tế và có những đóng góp cho xã hội.

Tính đến nay, đã gần 20 năm các địa phương có cộng đồng người Chăm Islam sinh sống thực hiện các Chỉ thị, Thông báo trong vùng đồng bào người Chăm, như: Thông báo số 119-TB/TW ngày 30/9/2003 của Ban Bí thư về “Chủ trương công tác đối với Hồi giáo trong tình hình mới”; Chỉ thị 06/2004/CT-TTg ngày 18/02/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự đối với vùng đồng bào Chăm trong tình hình mới (giai đoạn 2004-2015)... Việc hỗ trợ và giải quyết công ăn việc làm của đồng bào Chăm Islam giáo được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.

Theo số liệu tổng hợp từ Ủy ban Dân tộc, chỉ sau 10 năm triển khai Chỉ thị 06, các tỉnh, thành có đồng bào Chăm nói chung và Chăm Islam nói riêng đều đã tạo được chuyển biến tích cực. 100% xã có đường ô tô được kiên cố hóa đến trung tâm xã, có điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học, nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa xã... Hệ thống nước sinh hoạt tập trung được đầu tư đảm bảo phục vụ đời sống, sinh hoạt của người dân. Hệ thống thủy lợi đã được đầu tư cơ bản đảm bảo yêu cầu phục vụ tưới tiêu sản xuất.

Các xã thuần Chăm đều có chợ (một số xã có 2 chợ) phục vụ nhu cầu mua, bán, trao đổi hàng hóa… Vấn đề thiếu và không có đất sản xuất cơ bản được giải quyết. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm từ 1 - 2,4%/năm, tiệm cận với tỷ lệ giảm nghèo bình quân chung của cả nước.

anh-1.jpg
Thánh đường Mosqué Muslimne ở tỉnh  Trà Vinh. Ảnh Hương Nguyễn

Cùng với hỗ trợ của các tổ chức, về chăm sóc sức khỏe, cho vay vốn, xây dựng cơ sở vật chất và dạy làm kinh tế, cộng đồng Chăm còn được chính những người Chăm Islam giáo hỗ trợ, nhất là trong thực hành tôn giáo như lễ Korban. Theo TS Nguyễn Thị Quế Hương, việc hỗ trợ tiền, hiện vật khá phổ biến trong cộng đồng Chăm Islam, bởi bất kỳ người Islam nào cũng phải thực hiện Zakat - nghĩa vụ quyên góp của một cá nhân mỗi năm cho các hoạt động từ, đặc biệt đối với những người khá giả, giàu có lại càng phải quyên góp nhiều hơn. Người Islam giáo không được phép cho vay vốn, hoặc có chăng là số ít, vì đó là điều cấm kỵ theo lời dạy củaThánh Allah trong Kinh Qur’an, nên họ chỉ đi vay vốn của nhà nước. Sự trợ giúp của các tổ chức Islam ở nước ngoài cũng gián tiếp tạo ra nguồn lực kinh tế cho địa phương.

Cùng với những hỗ trợ của các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng Islam giáo, bản thân người Chăm Islam cũng cố gắng, tạo dựng cho mình những mối quan hệ có ích, có thể hỗ trợ họ trong cuộc sống, đây cũng là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử, ngoại giao của người Islam luôn hài hòa, niềm nở, giao du trong quá tình mưu sinh. Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu Tôn giáo cho thấy, người Chăm Islam tại Việt Nam luôn giữ mối quan hệ tốt với những người thuộc các dân tộc khác không theo Islam giáo; cũng như người Chăm và tộc người khác theo Islam giáo ở nước ngoài. Điều đó cho thấy, tính di cư cả trong nước và quốc tế cũng là yếu tố tạo lên các mối quan hệ có ích cho cuộc sống của họ, đồng thời, khẳng định tinh thần đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng Islam giáo.

ndcc-12.jpg
Đám cưới theo nghi lễ của người Chăm Islam tại làng Chăm Châu Phong (tỉnh An Giang) - Ảnh: Ngọc Tiên

Người Chăm Islam giáo luôn hướng ngoại, mong muốn mở rộng các mối quan hệ của họ với các cộng đồng khác để tăng cường giao lưu đoàn kết, gắn bó, đúng với tinh thần dân tộc Việt Nam là hai chữ "đồng bào" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao.

Có thể thấy, các chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho cộng đồng Chăm nói chung và Chăm Islam nói riêng đang phát huy hiệu quả tích cực. Khi kinh tế phát triển, đời sống của các tín đồ được nâng lên cũng sẽ góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định an ninh trật tự, củng cố khối đoàn kết toàn dân và lòng tin trong cộng đồng về một tương lai thịnh vượng hơn.

  • Bắc Kạn: Hàng vạn du khách dự Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể

    (TN&MT) - Hàng năm, cứ mỗi dịp xuân về, người dân Ba Bể lại tổ chức lễ hội để cầu chúc cho một năm mới có nhiều may mắn. Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể là lễ “xuống đồng” lớn nhất của tỉnh Bắc Kạn, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014. Chính hội vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm, tại thôn Bó Lù, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể.

  • Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2

    Sáng 25/12, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức khai mạc Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2.

  • Nét đặc trưng Lễ hội thờ Thần nước vùng đất Tiền Bạt

    Người dân vùng đất Tiền Bạt, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh coi lễ hội ở Miếu Đôi rất quan trọng, có tác động không nhỏ đến sự an cư của làng. Bởi vậy, trong nghi lễ thờ thần nước, với quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá”, lễ cầu mưa là một trong những tín ngưỡng đặc trưng.

  • Lễ “Bun huột nặm” của người Lào ở Điện Biên

    (TN&MT) - Tỉnh Điện Biên rất nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Lào có khoảng hơn 4.000 người. “Bun huột nặm” là tiếng gốc Lào – dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Tết té nước. Đây là lễ hội đặc trưng của dân tộc Lào, để chào đón năm mới theo phật lịch.

  • Tín ngưỡng thờ nước ở vùng đồng bằng sông Hồng

    (TN&MT) - Định cư quần tụ dọc theo hàng chục con sông lớn nhỏ từ ngàn năm nay, cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn luôn gìn giữ tín ngưỡng thờ nước và nghi lễ thỉnh nước trong các lễ hội dân gian.

  • Phật giáo Đà Nẵng bảo vệ môi trường

    Triết lý Phật giáo có nhiều răn dạy phật tử về sống hài hòa với tự nhiên, sống tiết kiệm, trân quý sinh vật sống rất phù hợp với lối sống xanh, bảo vệ môi trường hiện nay. Một nghiên cứu khảo sát của PGS.TS Lưu Quý Khương (Đại học Đà Nẵng) đã cho thấy, Phật giáo đóng vai trò tích cực trong tuyên truyền cũng như thực hành các hoạt động môi trường tại cộng đồng.

  • Chuẩn hóa lễ hội truyền thống

    (TN&MT) - Được xem là bảo tàng “sống” về văn hoá của các dân tộc đã được lưu truyền qua nhiều thế kỷ, lễ hội truyền thống đang đứng trước nhiều nguy cơ bởi tác động của xu thế hội nhập, “thương mại hóa”, “nhất thể hóa”, “đơn điệu hóa”… Trong bối cảnh đó, Bộ tiêu chí về xây dựng môi trường văn hóa trong lễ hội truyền thống (Bộ tiêu chí) được ban hành có ý nghĩa quan trọng, không chỉ hài hòa giữa yếu tố bảo tồn và phát triển, mà còn đảm bảo sự sống còn của những giá trị văn hóa truyền thống.

  • Góc nhìn của Phật giáo trong bảo vệ môi trường

    (TN&MT) - Trong giáo lý nhà Phật, môi trường được coi là một trong những yếu tố quan trọng để che chở, bao bọc cho sự sống con người. Với triết lý từ bi hỷ xả, Phật giáo mang đến thông điệp con người không nên gây tổn hại đến bất cứ điều gì, kể cả môi trường.

  • “Chuyển biến xanh” tại các lễ hội ở Lào Cai

    (TN&MT) - Tuyên truyền người dân và du khách ý thức hơn trong việc xả rác, đặt thêm các thùng rác, dọn dẹp vệ sinh trước, trong và sau các Lễ hội, thành lập các tổ kiểm tra nhắc nhở ý thức bảo vệ môi trường - đó là những hành động thiết thực của cơ quan chức năng tỉnh Lào Cai để nâng cao ý thức của nhân dân và du khách về bảo vệ môi trường tại các lễ hội trên địa bàn.

  • Sơn La: Quan tâm bảo vệ môi trường các lễ hội

    (TN&MT) - Nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, Sơn La hội tụ 12 dân tộc anh em với kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái riêng độc đáo của từng dân tộc, đã tạo nên bức tranh văn hoá đa dạng, phong phú, cùng hệ thống lễ hội đa sắc thái. Quan tâm phát triển lễ hội gắn với bảo vệ môi trường là những mục tiêu trọng tâm đang được địa phương chú trọng triển khai.

  • Luật hóa quy định quản lý môi trường lễ hội

    (TN&MT) - Bảo vệ môi trường được xem là một trong các tiêu chí đánh giá năng lực công tác quản lý nhà nước, hiệu quả tổ chức lễ hội ở địa phương. Nhiều văn bản pháp luật đã quy định rõ về trách nhiệm, hướng dẫn việc quản lý môi trường, để hướng đến những “lễ hội xanh”.

  • Xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo

    (TN&MT)- Trong thời gian qua, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long tích cực triển khai các giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo diễn ra hàng năm.

Xem thêm

Đọc nhiều nhất