Với hơn 435.000 ha nuôi tôm nước lợ, chiếm khoảng 40% diện tích nuôi tôm cả nước, Cà Mau tiếp tục giữ vai trò trung tâm của ngành tôm Việt Nam. Năm 2025, sản lượng tôm của tỉnh đạt gần 595.000 tấn, dẫn đầu cả nước, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản vượt mốc 2,5 tỷ USD.
Đây cũng là năm Cà Mau hoàn thành việc hợp nhất với tỉnh Bạc Liêu, mở rộng không gian phát triển kinh tế biển và nuôi trồng thủy sản. Việc sáp nhập không chỉ làm tăng quy mô địa lý, mà còn tạo điều kiện tái cấu trúc ngành tôm theo hướng tập trung hơn, gắn sản xuất với hạ tầng, logistics và thị trường xuất khẩu.
Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau. Ảnh: Như Tâm.
Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho biết, trong cơ cấu kinh tế, thủy sản tiếp tục là trụ cột. Năm 2025, GRDP toàn tỉnh ước tăng 8%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,51%, đứng đầu đồng bằng sông Cửu Long. Riêng thủy sản đóng góp trên 75% giá trị sản xuất khu vực này, cho thấy mức độ phụ thuộc lớn của tăng trưởng địa phương vào ngành tôm.
Tuy nhiên, lợi thế về quy mô không còn đủ để bảo đảm tăng trưởng dài hạn. Trước các yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường nhập khẩu về môi trường, phát thải và truy xuất nguồn gốc, Cà Mau đang chuyển trọng tâm từ mở rộng diện tích sang nâng chuẩn sản xuất. Đến nay, hơn 37.000 ha nuôi tôm của tỉnh đã đạt các chứng nhận quốc tế như VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP, Naturland và Selva Shrimp, tạo “giấy thông hành” cho tôm Cà Mau vào các thị trường cao cấp.
Cùng với đó, cơ cấu nuôi thay đổi nhanh. Diện tích nuôi thâm canh và siêu thâm canh đạt khoảng 40.000 ha, trong đó siêu thâm canh hơn 13.200 ha. Các mô hình nuôi tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học, kết hợp đa tầng sinh học (RAS-IMTA) đã được nhân rộng lên khoảng 1.500 ha, với năng suất 22-25 tấn/ha/vụ. Đây là nhóm mô hình cho năng suất cao, nhưng đồng thời đòi hỏi kiểm soát chặt chẽ môi trường nước, dịch bệnh và phát thải.
Bên cạnh nuôi công nghệ cao, Cà Mau tiếp tục ưu tiên nuôi tôm sinh thái gắn với bảo vệ rừng ngập mặn. Mô hình tôm - rừng, tôm - lúa không chạy theo sản lượng tối đa, nhưng phù hợp với xu hướng tiêu dùng xanh và phát triển bền vững. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, đây được xem là hướng đi giúp ngành tôm giảm rủi ro, duy trì sinh kế và bảo vệ hệ sinh thái ven biển.
Dù vậy, thực tiễn thời gian phát triển vừa qua cũng bộc lộ nhiều điểm nghẽn. Hạ tầng thủy lợi, điện và giao thông tại các vùng nuôi trọng điểm chưa đồng bộ, làm tăng chi phí sản xuất. Biến đổi khí hậu gây xâm nhập mặn, sạt lở bờ biển và ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nuôi. Liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo, trong khi một bộ phận người nuôi gặp khó trong tiếp cận công nghệ mới và quy trình đạt chuẩn quốc tế.
Tôm Cà Mau được xem là thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài nước. Ảnh: Chí Hiếu.
Trước thực tế đó, Cà Mau xác định giai đoạn tới không thể phát triển ngành tôm theo chiều rộng. Theo ông Sở, mục tiêu là trở thành trung tâm công nghiệp tôm của cả nước.
Nhiệm vụ này đã được đặt trên nền tảng quy hoạch lại vùng nuôi theo điều kiện sinh thái từng khu vực. Các vùng siêu thâm canh công nghệ cao được bố trí song hành với vùng nuôi sinh thái, nhằm hạn chế xung đột môi trường và tối ưu hiệu quả đầu tư.
Khoa học công nghệ và chuyển đổi số được coi là trục xuyên suốt. Việc quản lý giống, thức ăn, môi trường nước và phòng dịch bệnh được định hướng dựa trên dữ liệu, giảm phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Các mô hình nuôi tuần hoàn, ít phát thải được khuyến khích để phù hợp với yêu cầu tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn mà nhiều thị trường nhập khẩu đang áp dụng.
Về vấn đề thị trường, tỉnh thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị khép kín, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sâu vào vùng nguyên liệu, gắn với hợp tác xã và người nuôi. Thương hiệu “tôm Cà Mau” được định vị không chỉ bằng quy mô sản xuất, mà bằng hệ tiêu chuẩn xanh, chứng nhận quốc tế và liên kết với các doanh nghiệp lớn trong ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản.
Cách tiếp cận của Cà Mau cho thấy sự chuyển dịch sản xuất theo nhu cầu thị trường. Khi dư địa mở rộng diện tích không còn nhiều, việc đặt chuẩn xanh, chuẩn công nghệ và chuẩn chuỗi giá trị sẽ quyết định khả năng giữ thị phần và vị thế của ngành tôm Việt Nam trong giai đoạn tới.















