Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa gửi Bộ Tư pháp hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai để thẩm định.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất sửa đổi Điều 159 theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết các trường hợp áp dụng bảng giá đất. Ảnh: Thanh Quang.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về bảng giá đất
Trong đó, về giá đất, tài chính đất đai Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất sửa đổi Điều 159 (quy định về Bảng giá đất) theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết các trường hợp áp dụng bảng giá đất; quy định bảng giá đất được xây dựng theo loại đất, khu vực, vị trí; quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định bảng giá đất định kỳ 05 năm một lần và công bố và áp dụng từ ngày 1/1 của năm đầu kỳ; trường hợp cần thiết thì UBND cấp tỉnh quyết định bổ sung bảng giá đất trong năm.
Lý do được Bộ đưa ra là trong quá trình tổ chức thực hiện áp dụng bảng giá đất Chính phủ có thể linh hoạt, chủ động bổ sung các trường hợp cần áp dụng bảng giá đất; địa phương chủ động bổ sung bảng giá đất trong năm để đáp ứng tình hình thực tế.
Bộ cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 160 (giá đất cụ thể) theo hướng không quy định về giá đất cụ thể; quy định hệ số điều chỉnh giá là tỉ lệ tăng, giảm giá đất của các loại đất tương ứng với khu vực, vị trí đã quy định trong bảng giá đất. Hệ số điều chỉnh giá đất được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành áp dụng từ ngày 1/1 hằng năm; trường hợp cần thiết sửa đổi, bổ sung hệ số điều chỉnh giá đất trong năm hoặc cho từng khu vực để áp dụng.
Lý do: Để làm căn cứ điều chỉnh giá đất trong bảng giá đất theo từng năm; đồng thời tạo điều kiện cho các địa phương chủ động quyết định phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước về giá đất tại địa phương.
Sửa đổi, bổ sung Điều 161 (Hội đồng thẩm định bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể) theo hướng bỏ các quy định liên quan đến xác định giá đất cụ thể, bổ sung Hội đồng thẩm định hệ số điều chỉnh giá đất, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng quy định này nhằm phù hợp với việc không quy định về giá đất cụ thể làm căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, linh hoạt cho Chính phủ trong việc quy định các nội dung liên quan đến Hội đồng thẩm định trong việc xây dựng bảng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất.
Đề xuất bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển KT-XH
Bộ Nông nghiệp đề xuất bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 79).
Thứ nhất, thực hiện các dự án đầu tư công khẩn cấp phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, đối ngoại; dự án trong khu thương mại tự do, trong trung tâm tài chính quốc tế; dự án logistics; dự án hỗn hợp dân cư, đô thị, du lịch, dịch vụ thương mại, văn hóa, thể thao và các mục đích khác; dự án công nghiệp văn hóa và các dự án phát triển kinh tế - xã hội khác do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.
Thứ hai, trường hợp sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất mà hết thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận hoặc hết thời gian gia hạn nếu được gia hạn thời gian hoàn thành thỏa thuận và đã thoả thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì Nhà nước thu hồi phần diện tích đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư.
Thứ ba, tạo quỹ đất để cho thuê đất tiếp tục sản xuất, kinh doanh quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 124 của Luật Đất đai năm 2024.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, việc bổ sung quy định này để thể chế nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 18-NQ/TW do Đảng ủy Chính phủ đề xuất được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tại Nghị quyết số 69-NQ/TW: “Nghiên cứu, xem xét mở rộng các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phù hợp với tình hình thực tiễn”.
Thực tế có nhiều dự án sử dụng đất (các dự án chỉnh trang đô thị, dự án hỗn hợp, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, logistic, du lịch, dịch vụ thương mại, văn hóa, thể thao…) với quy mô diện tích lớn, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế từ các giá trị gia tăng, tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động địa phương, thúc đẩy phát triển các dịch vụ kinh doanh phụ trợ tại khu vực dự án nhưng chưa có quy định được Nhà nước thu hồi đất, gây khó khăn cho quá trình tiếp cận đất đai và triển khai thực hiện dự án.
Đồng thời chưa có quy định thu hồi đất để tạo quỹ đất cho thuê đất tiếp tục sản xuất, kinh doanh đối với nhà đầu tư thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm nhưng phải di dời ra khỏi vị trí cũ do ô nhiễm môi trường hoặc phải thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, dẫn đến việc sản xuất, kinh doanh ngừng trệ do chưa có mặt bằng để tiếp tục sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, trên thực tế, nhiều dự án thực hiện theo cơ chế thỏa thuận nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng có một phần nhỏ diện tích mà nhà đầu tư không thỏa thuận được với người sử dụng đất dẫn đến tình trạng “dự án treo”, gây lãng phí nguồn lực đất đai, làm chậm tiến độ đầu tư và gây khó khăn cho nhà đầu tư.