Như Phục nói, khi cuốn thứ nhất của tập 1, tập Thơ & Trường ca ra lò, liền cầm vội nhảy lên xe ôm mà vào bệnh viện với Duật. Duật còn cảm nhận được điều gì đang diễn ra, ông ôm lấy cuốn sách và cứ ghì vào ngực. Ông đang khư khư nắm lấy cái bậc đá cuối cùng của bến trần gian, tôi muốn hiểu cử chỉ như thế, nhưng có thể nó còn có ý ôm ghì lấy nghĩa tình bè bạn, cái thứ mà không chắc ở vào thế giới mới ông lại còn có được. Ai mà dám chắc chắn về một thế giới mịt mờ chưa ai từng từ đó trở về miêu tả lại?
Trong những năm dài cuộc sống từ bất thường chiến tranh trở về đời thường, Phạm Tiến Duật xa dần với cảm giác nổi tiếng, ông như ngơ ngác hơn, như là người khác: Thế thì anh là ai giữa loanh quanh phố xá/ Giữa loay hoay bàn ghế ngẩn ngơ kia (Em đi về phía biển).
Cách đây mấy năm, khi ông mặc quân phục, đi dép râu và đội mũ tai bèo, lên sân khấu dẫn chương trình cho một liên hoan kỷ niệm tôi mới thấy một Phạm Tiến Duật tự tin, duyên dáng mà lại rất đĩnh đạc như trong ký ức. Nghĩ mà thương, sau cái thời cả nước đọc thơ mình, cái thời mình lĩnh xướng cho cả một thế hệ hát bài ca xung trận, lại có thể có lúc phải chịu cảm giác Nhớ đồng ca hát đồng ca. Ông viết thêm ở cuối bài: Không còn thì mới nhớ, không có thì mới nhớ. Nhớ đồng ca là khi không thấy người ta cùng hát nữa. Đến cô vợ bên cạnh cũng không hát với mình.
Thương lắm là tên một bài thơ khác, cùng viết thời trước 1980, Áo của hôm nào, người của hôm nay:
Áo có quen anh không, áo có nhớ anh không
Dẫu có gặp nhau rồi mà giờ nhìn chẳng biết
Nhiều người nói, thơ Phạm Tiến Duật chỉ hay ở giai đoạn Trường Sơn, tôi không nghĩ thế. Thơ Phạm Tiến Duật mang trong nó một nghịch lý, dưới cái vỏ hướng ngoại ở Trường Sơn thực ra là một hướng nội quan thiết nhất, ở đó nội tâm mỗi người trùng với nội tâm đất nước; ông chỉ hướng ngoại khi Tuyên bố chung với các hàng cây Matxcơva chẳng hạn, còn về sau, khi thấm thía hơn nỗi cô đơn của một kiếp người, hướng nội của ông mới có dịp đi vào ngõ ngách riêng, mới hướng nội thuần tuý. Nhưng tất cả đều đã muộn, đây là nội tâm khi ông uống rượu trộn nước mưa:
Tôi uống cùng ai giữa mưa nước dư thừa
Mà bạn bè tâm giao giờ này thưa thớt qúa
Là khi ông cảm nhận mình hoá ra chỉ là một nửa:
Bởi như thế em xa anh một buổi
Là anh đi lệch cả một bên người
Là khi ông nhìn Cây tháp nước bỏ hoang ở phường Trung Tự, nơi có căn hộ của ông mà thấy cái hoang vu giữa đời nhộn nhạo:
Giá em cứ ở xa nơi cuối bãi đầu ghềnh
Như cây tháp hoang giữa đảo hoang nào đó
Em lại cứ hiện hình ở giữa phường Trung Tự
Đã có khi đi, lại đập vào mắt cả khi về
Những câu thơ ấy và cả những câu này nữa, nó vừa phảng phất vừa bổ sung Thịnh Đường, nơi vẫn tự mãn rằng đã thơ hoá mọi nhân tình thế thái trong cõi nhân gian:
Gần mười ngày rồi sốt lại thuở Trường Sơn
Ngày đắp hai chăn vì nóng và vì lạnh
Phần nào của người nóng lên đến chóng mặt
Phần nào của người lạnh ra thế, người ơi
Tôi đã khóc cho thơ, cho một kết cục của những tưng bừng làm cả nước xao xuyến:
Hay là người này cũng là vật bỏ hoang của người kia
Biết làm sao được, lòng có muốn đâu nhưng cứ vật đổi sao dời, các giá trị bây giờ đều bị đảo lộn, cái thiêng quý trở thành phương tiện của cái vật dụng:
Và những ngày này ai còn nói si mê
Âm nhạc với văn chương thành ma-ket-tinh tuốt luốt
Tình yêu hả? Tình yêu thì cũng tốt
Có nhạc vàng khách khứa đến đông hơn (Lý ngư tôi vọng nguyệt)
*
* *
Bọn tôi nói đây là Trần Nhương, người cứ cuối mỗi bữa ăn lại hỏi thằng nào giả tiền? còn đủ không, thiếu thì bảo để tao còn về vẽ vi nhét cho nó (là nói Tuyển tập PTD) và sau một đêm, ông đã vẽ xong chân dung Phạm Tiến Duật, một bức vẽ mà hoạ sỹ vẽ bìa Tuyển tập PTD Hữu Thanh xếp ông vào hàng hoạ sỹ cổ điển.
Là Đàm Khánh Phương cung phụng những người làm sách cho Duật như là làm sách cho chính mình.
Là Trần Ninh Hồ vào tuổi ngoại 60 lại cứ muốn có mặt bài thơ của mình vào tuyển tập bạn, bài thơ ấy nói rằng, cái thời Trường Sơn tôi đi tìm Phạm Tiến Duật như đi tìm một Thánh thi, một vưu vật: Tôi đi dọc Trường Sơn và tìm Phạm Tiến Duật.
Ông trở thành một nhân chứng sống của cái thời mà tình yêu thơ với yêu nước là Một, thời mà một nhóm blogger của Sài Gòn khi biết Nguyễn Khắc Phục và các bạn làm tuyển tập cho Phạm Tiến Duật đã gửi 1 triệu đồng với một lá thư, đại ý, bác (NKP) và mọi người đã làm sống lại một thời oai hùng của đất nước, cái thời chúng cháu còn chưa có mặt trên đời sao mọi người yêu thương nhau đến thế, thơ hay đến thế, cuộc sống sao lại đẹp đến thế; khiến chúng cháu cảm thấy mình đã sống vô ơn, đã sống vô tình.
Là nhà thơ Quang Hoài, có giọng đọc thơ Phạm Tiến Duật nó ra Phạm Tiến Duật, ông có nhớ rằng, chùm được giải nhất báo Văn nghệ năm 1968-69 của Phạm Tiến Duật lẽ ra là 5 bài nhưng một bài bị bỏ, vì các ông ấy hốt rằng sao anh bộ đội khi vào trại lính Mỹ đang cháy lại cố cứu cho bằng được bức ảnh của vợ con lính Mỹ, khiến chính anh bị cháy sém cả tóc tai và suýt mất mạng.
Vâng cái thời ấy nó thế. Nhưng phải kể để làm chứng rằng thơ Trường Sơn của Phạm Tiến Duật phong phú hơn là như nó vẫn hiện ra. Còn tôi, tôi phải cố gắng lắm mới chen vào được giữa say sưa thơ Duật, cũng chỉ muốn bạn yêu thơ lưu ý đến sự đa thanh của một Phạm Tiến Duật Trường Sơn. Vâng, vào thời ấy, Phạm Tiến Duật đã bao quát hơn một cuộc chiến tranh:
Biên giới đói chẳng cần nhiều ý nghĩa
Mặt cầu cong dằng dặc những đoàn người
Đi như sọc đen trên quả dưa
Đi như luồng hải lưu trên biển
Đi để đi chứ biết đâu mà đến
(…) Những tấm tôn lát đường bay lên
Giữa trời cung quăng con dao cái rựa (Nhớ lại những trận gió di dân)
Cũng như, vào năm 25 tuổi, ông đã nhìn chiến tranh như lửa của hoàn nguyên sự sống được biểu lộ hùng hồn qua bài Lửa đèn, một trong những bài xuất sắc nhất của ông:
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay
Và thật bất ngờ, cực kia của khái quát thơ ông lại là niềm thương cảm nhỏ nhoi cụ thể, khiến người đọc không thể không khóc:
Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay
Nước mắt dễ lây mà rừng lặng quá (Cô bộ đội ấy đã đi rồi)
Trong những lần gặp gỡ nhau như thế, Nguyễn Khắc Phục có sáng kiến định tổ chức cho buổi ra mắt Tuyển tập Phạm Tiến Duật thế này: Sẽ xin phép Bệnh viện 108, nơi Phạm Tiến Duật nằm bệnh, để lập ra trong vườn cây bệnh viện một “góc Trường Sơn,” các tấm áp phích nổi tiếng một thời “Tất cả cho giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam” được kẻ bằng vôi trên các nong nia, mọi người đến dự thì tuỳ nghi ngồi dưới gốc cây, trên thảm cỏ hay trên các võng dù được căng chéo các gốc cây. Các ca sỹ hát các bài hát phổ thơ Phạm Tiến Duật được đệm bởi các cây măng đô lin, ghi ta gỗ, sẽ mặc quân phục TNXP, đi dép râu và đội mũ tai bèo…nghĩa là một góc Trường Sơn sẽ sống dậy trong thơ, trong nhạc; sống tưng bừng trong niềm kỳ vọng vào một phép mầu: Phạm Tiến Duật sẽ ngồi xe lăn, thở bình ô xy, chợt ông từ từ đứng dậy, cầm lấy một trong các micro và hát như ông vẫn song ca cùng các ca sỹ: Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn/ Hai đứa ở hai đầu xa thẳm.
Cố nhiên, phép lạ đã không xẩy ra, và những mường tượng của chúng tôi về lễ ra mắt tuyển thơ Phạm Tiến Duật cũng lại diễn ra theo cách khác. Nhưng, trong buổi giới thiệu Tuyển tập Phạm Tiến Duật do Hội Nhà văn tổ chức chiều 17/11 người ta vẫn được sống và được chứng kiến tình yêu thơ ca, tình yêu thương đồng đội cứ cồn lên qua các đợt sóng người chen chúc nhau đến dự.
Tôi đặc biệt cảm kích khi nghe Thượng tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Tư lệnh Mặt trận 559 Trường Sơn kể lại những kỷ niệm về thơ Phạm Tiến Duật. Ông nói: “Sau khi đọc bài thơ Tiểu đội xe không kính in ở báo Trường Sơn, tôi đã gửi cho Duật cái áo giáp và chiếc mũ sắt.” Vâng, tài ấy quả là quý hiếm, nó xứng đáng được bảo vệ, và ở đây còn một ý nghĩa kép: Cả Đất Nước làm nên Trường Sơn, nhưng Trường Sơn chỉ trở nên là Trường Sơn trọn vẹn khi có ông tướng ấy, có nhà thơ ấy.
Trong ánh hồi quang thơ Phạm Tiến Duật tôi bâng khuâng nghĩ ngợi. Thời nào thì lũ nhà văn cũng chơi với nhau, cũng thương nhau đến độ. Thế nên trong đời sống văn học, thời tiền chiến mới có Thả thơ, mới có Một đêm họp đưa ma Phụng của Nguyễn Tuân. Cái Thả thơ thì eo hẹp salông, nó là thú của thời còn nghèo nghèo, còn nho nhỏ. Cái Một đêm họp đưa ma Phụng suốt thời trai trẻ tôi phục mà chưa hiểu vì sao, bạn chết còn nằm kia mà bè bạn lại đi hát cô đầu. Chỉ đến tuổi này, cái tuổi đã nếm đủ thứ mùi đời, đã chán vạn sự, hát thơ Duật mà cứ ứa nước mắt, ứa nước mắt mà lại cứ uống bia thì mới thấm thía đến tận cùng nỗi đau thương người nằm đó.
Nghĩ ngợi rồi giật mình. Nếu không có Hội Nhà văn tổ chức ra mắt Tuyển tập Phạm Tiến Duật, nếu không có Nguyễn Khắc Phục và bè bạn không kể ngày đêm sưu tầm biên soạn rồi vẽ bìa vẽ phụ bản, rồi lo in ấn cho kịp, thì thế hệ chúng tôi biết lấy gì mà so với thời cụ Nguyễn?