Theo TS. Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai, những năm qua, Việt Nam liên tiếp hứng chịu nhiều trận bão, lũ trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng và nhiều chỉ số mang tính lịch sử.
TS. Cao Đức Phát phát biểu tại Diễn đàn “Ứng dụng khoa học, công nghệ trong dự báo và cảnh báo sớm thiên tai” chiều 25/11. Ảnh: Bá Thắng.
Trong ứng phó thiên tai, công tác dự phòng luôn đóng vai trò then chốt mà trước hết là năng lực giám sát, dự báo và cảnh báo sớm. Những năm gần đây, Nhà nước cùng các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đã đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, dự báo và đạt được nhiều tiến bộ, đặc biệt trong dự báo bão. Tuy vậy, do thiên tai ngày càng khó lường và đa dạng, công tác giám sát và cảnh báo vẫn còn những hạn chế so với yêu cầu thực tiễn.
“Ở chiều ngược lại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, đang mở ra cơ hội mới để nâng cao hiệu quả dự báo. Ngoài dữ liệu vệ tinh, nhiều thiết bị tự động đo mưa, radar, cảm biến đo nhiệt độ, gió, mực nước, lưu tốc hay dịch chuyển đất đá đang được triển khai, cho phép tích hợp thông tin nhanh hơn, mô phỏng chính xác hơn theo từng địa bàn và truyền tải kịp thời đến người dân”, TS. Cao Đức Phát đặt vấn đề.
Hoạt động trồng rừng của Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai. Ảnh: QPT.
Trong 17 năm qua, Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai đã huy động nguồn lực xã hội để lắp đặt gần 1.000 trạm đo mưa và cảnh báo lũ tự động; hiện tiếp tục phối hợp hỗ trợ thiết bị đo mặn, cảnh báo sạt lở, xây dựng hệ thống cảnh báo số và đội xung kích phòng chống thiên tai ở cơ sở.
Chuyên gia cho rằng, khi cả nước đang hướng về miền Trung để hỗ trợ đồng bào vượt qua khó khăn cũng là thời điểm cần suy nghĩ sâu hơn về việc ứng dụng khoa học kỹ thuật để xây dựng các mô phỏng cảnh báo cụ thể. Các địa phương cần nghiên cứu xây dựng mô phỏng rủi ro ngập lụt và sạt lở theo từng vùng, từng cấp độ, từng bước hoàn thiện để phục vụ cảnh báo chủ động. Những công nghệ này chỉ phát huy hiệu quả khi đi cùng đầu tư thiết bị quan trắc, hệ thống cảnh báo và một bộ máy vận hành ổn định, được duy trì lâu dài.
Giới thiệu một số dự án tiêu biểu mà Quỹ triển khai trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, TS. Hạ Thúy Hạnh, Phó Giám đốc Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai, cho biết, hệ thống công trình cộng đồng phòng tránh thiên tai được xây dựng dưới dạng nhà 2 tầng kiên cố tại những khu vực thường xuyên xảy ra bão lũ, ngập lụt.
“Khi thời tiết bình thường, các công trình này phục vụ nhu cầu an sinh xã hội như lớp học, trạm y tế hay sinh hoạt văn hóa. Đến khi thiên tai xảy ra, đây trở thành nơi tránh trú an toàn cho khoảng 200 người mỗi công trình”, TS. Hạ Thúy Hạnh cho hay.
Trong lĩnh vực phòng tránh đuối nước, dự án xây dựng bể bơi học đường góp phần đưa môn bơi vào chương trình chính khóa từ bậc tiểu học, nhằm giảm thiểu tai nạn thương tâm ở trẻ em. Những bể bơi có mái che và tường rào bảo vệ đã tạo điều kiện cho hàng vạn học sinh được học bơi trong môi trường an toàn.
Theo TS. Hạ Thúy Hạnh, Quỹ sẽ đặt trọng tâm vào ứng dụng công nghệ trong cảnh báo sớm, xây dựng hệ thống giám sát và điều hành theo thời gian thực trong thời gian tới. Ảnh: Bá Thắng.
Từ năm 2016 đến nay, Quỹ cũng hỗ trợ các địa phương chịu hạn mặn xây mới hoặc nâng công suất 25 nhà máy và hệ thống cấp nước sạch, đồng thời cấp bồn chứa, ống bi để người dân trữ nước phục vụ mùa khô. Tổng giá trị hỗ trợ đạt 161 tỷ đồng tại 10 tỉnh, thành phố.
Với mục tiêu “Không để học sinh nào phải bỏ học vì thiên tai”, chương trình “Vì tương lai xanh” trao tặng sổ tiết kiệm trị giá 10 triệu đồng cho học sinh có người thân thiệt mạng hoặc mất nhà cửa do lũ lụt, giúp các em tiếp tục học đến lớp 12. Chương trình cũng hỗ trợ khẩn cấp 2-5 triệu đồng cho học sinh khó khăn để mua lại sách vở, quần áo và đồ dùng học tập sau thiên tai.
Quỹ còn phối hợp Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai vốn quay vòng cho phụ nữ nghèo phát triển sinh kế, tích lũy để sửa chữa nhà cửa phòng tránh thiên tai. Bên cạnh hỗ trợ tài chính, chị em được tập huấn kỹ thuật sản xuất, quản lý tài chính và kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Dự án đã hỗ trợ ban đầu 746 hộ và mở rộng thêm 335 hộ từ nguồn vốn quay vòng.
Trạm đo mưa tự động cảnh báo thiên tai tự động tại khu tái định cư Tắk Pát, xã Trà Leng, TP. Đà Nẵng. Ảnh: Hoàng Hiệp.
Trong công tác cảnh báo sớm, từ năm 2016 đến 2025, Quỹ đã tài trợ lắp đặt trạm đo mưa, tháp cảnh báo lũ, hệ thống cảnh báo sạt lở đất tại nhiều địa phương, góp phần nâng cao khả năng ứng phó của cộng đồng và chính quyền. Song song với đó là các dự án trồng và phục hồi rừng, đặc biệt là rừng ngập mặn phòng hộ tại Thanh Hóa, Quảng Bình, Sóc Trăng và Bạc Liêu, giúp giảm thiểu thiên tai, bảo vệ môi trường và tạo sinh kế bền vững cho người dân.
Giai đoạn 2011-2014, Quỹ hỗ trợ thành lập 85 đội xung kích cấp xã, tổ chức 16 lớp tập huấn và trang bị phương tiện cứu hộ, với tổng kinh phí hơn 9 tỷ đồng, góp phần xây dựng lực lượng tại chỗ trong phòng chống thiên tai.
Trong thời gian tới, Quỹ đặt trọng tâm vào ứng dụng công nghệ trong cảnh báo sớm, xây dựng hệ thống giám sát và điều hành theo thời gian thực, diễn tập sơ tán tại cộng đồng, mở rộng trồng rừng ngập mặn và tăng cường năng lực ứng phó cho lực lượng cơ sở cũng như người dân.
“Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai mong muốn tiếp tục nhận được sự đồng hành của các doanh nghiệp và nhà tài trợ trong nước và quốc tế, để kết nối cộng đồng và nâng cao khả năng ứng phó tại chỗ. Mục tiêu lâu dài là xây dựng những cộng đồng an toàn, chủ động và bền vững trước mọi rủi ro thiên tai”, TS. Hạ Thúy Hạnh nhấn mạnh.
Theo ông Lê Trọng Đảm, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, hoạt động của Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, nhất là khi nguồn lực Nhà nước chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu phòng chống và khắc phục hậu quả bão lũ.
Các hoạt động của Quỹ trải rộng từ xây dựng nhà tránh trú cộng đồng, sửa chữa công trình hư hại, đầu tư điểm trường vùng thiên tai, xây bể bơi học đường phòng chống đuối nước, trồng rừng phòng hộ đến trao học bổng cho học sinh khó khăn. Nhiều mô hình đã được nhân rộng và trở thành nguồn lực bổ trợ hiệu quả cho Nhà nước trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai.
















