Sức ép xanh hóa của ngành da giày Việt Nam đang dịch chuyển từ nhà máy sang nguyên liệu. Không ít đơn hàng giờ đã đặt ra những vấn đề như tỷ lệ tái chế bao nhiêu, có rủi ro hóa chất không... thay vì chỉ kiểm tra thành phẩm. Khi dữ liệu vật liệu trở thành điều kiện giao hàng, các doanh nghiệp phụ trợ trong nước buộc phải nâng cấp nhanh hơn khối gia công.
Nhóm của Nguyễn Thị Thanh Vân sản xuất thành công loại da làm từ vỏ xoài. Ảnh: Ca Linh.
Ở mảng vật liệu thay thế da, Việt Nam đã xuất hiện các hướng đi tận dụng phế phẩm nông nghiệp như vỏ trái cây, sợi lá… để tạo vật liệu “giả da” cho phụ kiện và một số ứng dụng thử nghiệm.
Nổi bật có kết quả từ nhóm sinh viên Trường Đại học Trà Vinh. Họ đã tận dụng vỏ xoài để phát triển vật liệu da sinh học, biến phụ phẩm nông nghiệp thành nguyên liệu có giá trị. Nguyễn Thị Thanh Vân, 1 trong 4 thành viên sáng lập dự án “S2M - Da từ vỏ xoài” cho biết, Việt Nam là quốc gia sản xuất xoài lớn với sản lượng hơn 1 triệu tấn mỗi năm.
Trong đó, vỏ chiếm khoảng 15-20% trọng lượng quả, tương đương 150.000–200.000 tấn chất thải, phần lớn chưa được tái chế.
Dự án được nhóm triển khai từ tháng 3/2024, ứng dụng công nghệ tái chế vỏ xoài thành da sinh học. Sản phẩm hiện ở giai đoạn bán thử nghiệm, đã sản xuất được các khổ 1,4 m và 4 m, đủ khả năng cung ứng vật liệu cho doanh nghiệp có nhu cầu. Theo Vân, da sinh học từ vỏ xoài đạt yêu cầu về độ bền, thẩm mỹ và tính ứng dụng, có thể dùng làm túi xách, ví và các sản phẩm thời trang, với chất lượng tương đương một số loại da động vật.
Đạt những thành công bước đầu nhưng có thể thấy, nếu đưa vào chuỗi cung ứng da giày xuất khẩu, vật liệu không chỉ cần “xanh” mà phải đạt tiêu chí cơ lý ổn định theo lô, truy xuất được đầu vào, và đặc biệt là kiểm soát được rủi ro hóa chất trong suốt vòng đời sản phẩm.
Một lưu ý kỹ thuật mà doanh nghiệp trong nước không thể bỏ qua là kiểm soát hóa chất trong da thuộc. EU đang hạn chế Chromium(VI) trong các sản phẩm da tiếp xúc với da người ở mức dưới 3 mg/kg theo REACH (Annex XVII, entry 47).
Với chuỗi cung ứng giày dép, đây là ngưỡng dư lượng khiến các nhà máy thuộc da và doanh nghiệp mua da phải kiểm soát chặt quy trình, hóa chất, điều kiện lưu kho để tránh rủi ro khi kiểm nghiệm. Vì vậy, xu hướng chuyển sang công nghệ thuộc da giảm rủi ro, ví dụ các hệ thuộc không dùng crom ở một số dòng sản phẩm, được nhắc đến như một hướng đi nhằm tăng độ an toàn tuân thủ, dù chi phí và yêu cầu công nghệ cao hơn.
Tác động lan tỏa rõ nhất nằm ở khu vực công nghiệp hỗ trợ. Thay vì chỉ tăng công suất, doanh nghiệp nguyên phụ liệu phải chứng minh “xanh” bằng hồ sơ kỹ thuật và dữ liệu. Thành phần vật liệu, tỷ lệ tái chế, danh mục hóa chất, cùng khả năng truy xuất theo lô.
Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ đặt mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm giày dép lên 75-80% vào năm 2025. Nếu đi kèm với yêu cầu “nguyên liệu xanh”, nội địa hóa sẽ vừa giúp giảm chi phí, vừa giảm khoảng cách dữ liệu và giảm phát thải vận chuyển trong chuỗi cung ứng.
Về phía nhu cầu thị trường, các khảo sát về “mức sẵn sàng trả thêm” có thể dùng như một chỉ dấu hành vi tiêu dùng. First Insight từng công bố khảo sát cho thấy 73%, thế hệ trẻ tại các nước phát triển sẵn sàng trả thêm cho sản phẩm bền vững, ở mức khoảng 10% tăng thêm. Đây là dữ liệu tham khảo để lý giải vì sao nhãn hàng coi “vật liệu xanh” là lợi thế cạnh tranh.























