'Tiếng Việt thuộc họ Nam Á', kết luận gây ngạc nhiên với những người ngoài ngành, nhưng trong con mắt của giới chuyên môn thì nó là một Thái Sơn, to lớn và vững chãi.
Nhà bác học Pháp A. G. Haudricourt (1911-1996), người chứng minh thành công họ Nam Á của tiếng Việt. Ảnh: researchgate.net
Chúng tôi cố tránh những thuật ngữ chuyên ngành khi viết bài này, mục đích là để làm cho vấn đề trở nên bình dân và dễ hiểu hơn với những người không theo học ngành ngôn ngữ học.
Nhu cầu tìm về cội nguồn của mình gần như là một thứ bản năng trong con người. Việc muốn biết cái tiếng mà mình đang nói hàng ngày có nguồn gốc từ đâu cũng nằm trong lý do ấy. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì đó lại không phải là người Việt!
Người đầu tiên đã đặt ra và trả lời về nguồn gốc tiếng Việt là Tabert (1838). Ông này xếp tiếng Việt vào họ Hán, vì ông thấy có tới 75% từ tiếng Việt có gốc Hán. Tuy nhiên, kết luận này không đúng, vì các từ ấy chỉ là vay mượn, chứ không phải cùng nguồn gốc.
Nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc thì cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc Nam Đảo. Ông đã đưa ra nhiều chứng cứ quan trọng và công phu cho giả thiết của mình, tuy nhiên chúng cũng đã không đứng vững được với cùng một lý do như đối với ý kiến của Tabert.
Quan trọng và có sức ảnh hưởng, thống trị trong một thời gian khá dài là quan điểm của Henry Maspéro khi ông xếp tiếng Việt vào họ Thái. Các bằng chứng, lập luận dựa trên từ vựng, thanh điệu, ngữ pháp của Maspéro tưởng chừng như không thể bác bỏ được nữa; nhưng không, năm 1953 và 1954 nhà bác học A. G. Haudricourt cho xuất bản 2 bài báo quan trọng là “Về nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt” và “Về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt”, lật nhào kết luận của Maspéro. Đến đây, trải suốt tới bây giờ không ai bác bỏ được Haudricourt. Ngày nay, họ Nam Á của tiếng Việt được dạy chính thức trong sách giáo khoa như là một chân lý.
Vậy, rõ ràng không thể chỉ đơn giản là nhìn vào sự giống nhau của vốn từ, của ngữ pháp, hay ngữ âm để kết luận nguồn gốc của một ngôn ngữ, cũng không phải là cái chuyện có hay không sự hòa huyết, “ăn chung ở lộn”; mà nó đòi hỏi một phương pháp làm việc dựa trên các nguyên tắc khoa học đặc thù của một ngành đặc thù. Trong phương pháp này sự giống nhau của một từ đối với ngôn ngữ A thậm chí còn có sức nặng hơn sự giống nhau của cả 1.000 từ đối với ngôn ngữ B, để làm cơ sở cho việc đi tìm nguồn gốc.
Không phải cứ giống nhau hay cùng biến đổi thì có thể kết luận được, mà ở đây tính quy luật, tính có lý do và tính hệ thống phải được đảm bảo. Ví dụ, một trong các bằng chứng quan trọng quyết định cho kết luận xếp tiếng Việt vào họ Nam Á là vấn đề thanh điệu. Trong khi Việt, Thái, Hán đều có thanh điệu thì đa phần các ngôn ngữ Nam Á lại không, hoặc không đầy đủ. Nhưng bằng các phương pháp và cách thức khoa học, Haudricourt đã chứng minh được rằng thanh điệu tiếng Việt là một hiện tượng hậu kỳ, thời cổ xưa nó vốn không có thanh!
Quá trình từ không thanh điệu thành có thanh điệu trong tiếng Việt đã diễn tiến từng bước theo đúng quy luật của ngữ âm học. Đầu Công nguyên là không thanh, đến thế kỷ thứ VI tiếng Việt xuất hiện 3 thanh, và sang đến thế kỷ XII thì đủ 6 thanh - nó tồn tại như thế đến bây giờ. Sự hình thành này không phải là ngẫu nhiên, mà do sự rơi rụng của một số âm nhất định cộng với tính chất đặc thù của những âm khác trong hệ thống âm thanh của tiếng Việt đã “đẻ” ra các thanh điệu này. Và Haudricourt đã chứng minh nó bằng các bằng chứng không thể bác bỏ được.
“Tiếng Việt thuộc họ Nam Á”, cái kết luận này gây ngạc nhiên với những người ngoài ngành, vì nhìn thì thấy chúng dường như không có liên hệ gì và chẳng giống nhau gì cả! Nhưng trong con mắt của các nhà chuyên môn thì nó là một Thái Sơn, to lớn và vững chãi.
Giả thiết thì ai cũng có thể đưa ra được nhưng chứng minh nó thì không phải người nào cũng có thể làm. Giá trị của một công trình khoa học là nằm ở chỗ chứng minh ấy. Nếu không chứng minh được thì đó chỉ là một ý tưởng vui, vô thưởng vô phạt.
Ai cũng có quyền giữ niềm tin của mình, nhưng niềm tin không được chứng minh thì đó là tôn giáo, không liên quan gì đến khoa học cả. Tất nhiên, tôn giáo rất có thể đúng, nhưng nó vẫn là tôn giáo, và chỉ có giá trị trong hệ thống tôn giáo của mình mà thôi; còn một khi nó muốn tranh với khoa học thì nó buộc phải trưng bằng chứng ra, trên cái nền của các nguyên tắc khoa học.
Thái Hạo
Bài viết cho chuyên mục xin được gửi về Báo Nông nghiệp Việt Nam, 14 Ngô Quyền, Hà Nội. Email: baonnvnts@gmail.com.
Hoặc liên hệ người phụ trách chuyên mục: Ông Tô Đức Huy, Trưởng ban Thư ký Tòa soạn; Điện thoại: 0913.378.918; Email: toduchuy75@gmail.com.
Không có hàng ngàn cổ động viên reo hò, nhưng tôi đã tưởng tượng là ê kíp truyền hình trực tiếp đang chèo một con thuyền chở văn hóa Quảng Bình đi khắp muôn nơi...
Dù khiêm tốn đến mấy, hẳn ông Lê Nam Sơn, ông Trịnh Bá Ninh và các biên tập viên kỳ cựu của báo đều không thấy chướng khi nói rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần làm nên, làm vững chắc thêm hiện tượng Báo Nông nghiệp Việt Nam số Tết trong làng báo nước nhà.
Ông bạn già kính mến của tôi thầm lặng viết 'Mồ cô Phượng', ở trong các tiệm ăn, ngoài đường, quán chợ, bến tàu. Vậy mà tuyệt nhiên không nói với tôi một lời.
Ở ngoài có bao nhiêu việc đáng nói, ở trong lòng tôi có bao nhiêu điều đáng viết ra, mà không nói, không viết nó lên giấy để cho nó như đã thành một thứ men rượu trong người thế này thì chịu sao được nổi nữa!
Kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025), Báo Nông nghiệp và Môi trường trân trọng trích đăng hồi ức nghề báo của Nhà báo lão thành Phùng Bảo Thạch thay lời tri ân đến nhiều thế hệ làm báo nước ta.
‘Em bé Napalm’ là bức ảnh nổi tiếng nhất về chiến tranh Việt Nam, sau nửa thế kỷ lại xôn xao dư luận về câu chuyện bản quyền liên quan đến tác giả Nick Ut.