Công nghiệp hỗ trợ được xem là “xương sống thầm lặng” của nền sản xuất, cung ứng linh kiện, phụ tùng và bán thành phẩm cho các ngành chủ lực như ô tô, điện tử, dệt may. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp trong lĩnh vực này vẫn nhỏ, thiếu vốn dài hạn để đầu tư máy móc, công nghệ, khiến khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế.
Vốn tín dụng từng được kỳ vọng là đòn bẩy giúp doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nâng cấp dây chuyền, mở rộng sản xuất. Nhưng không ít doanh nghiệp dù có hợp đồng tiềm năng với các tập đoàn FDI vẫn bỏ lỡ cơ hội vì không tiếp cận được vốn vay. Bài toán thiếu vốn, vì thế, trở thành “điểm nghẽn kinh niên” của ngành suốt nhiều năm.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đoàn Thái Sơn. Ảnh: VGP.
Trong bối cảnh đó, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đoàn Thái Sơn cho biết, cơ quan điều hành sẽ tiếp tục kiên trì định hướng dòng vốn vào sản xuất, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên như công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao và nông nghiệp.
Ông nhấn mạnh, tín dụng sẽ được điều hành phù hợp với chỉ đạo kinh tế vĩ mô và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời đẩy nhanh triển khai chương trình hỗ trợ 2% lãi suất từ ngân sách cho doanh nghiệp, HTX và hộ kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và áp dụng tiêu chuẩn ESG.
Đến cuối quý I/2025, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng hơn 700.000 tỷ đồng, chiếm 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Số lượng tổ chức tín dụng tham gia và quy mô dư nợ xanh đều tăng so với cuối 2024. Bình quân giai đoạn 2017-2024, dư nợ tín dụng xanh tăng hơn 21% mỗi năm, cao hơn tốc độ tín dụng chung, cho thấy dòng vốn xanh đang chuyển từ giai đoạn “thí điểm” sang “dòng chảy chính”.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tín dụng xanh sẽ trở thành trục trung tâm trong cấu trúc tín dụng 2025 và các năm kế tiếp, khi Việt Nam chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển bền vững.
Các ngân hàng thương mại được khuyến khích mở rộng vốn cho những dự án tiết kiệm năng lượng, đổi mới công nghệ, giảm phát thải. Với đặc thù sản xuất cơ bản, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có khả năng hấp thụ vốn xanh tốt nếu biết gắn đầu tư thân thiện môi trường với hiệu quả sản xuất.
Tính đến cuối tháng 8/2025, tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt khoảng 3,3 triệu tỷ đồng, chiếm 19% tổng dư nợ, trong đó tín dụng dành cho công nghiệp hỗ trợ tăng hơn 23%, cao gấp nhiều lần tốc độ tăng trưởng chung. Trong cơ cấu tín dụng toàn nền kinh tế, nhóm công nghiệp xây dựng chiếm gần 24%, thương mại dịch vụ chiếm gần 70%, phản ánh dòng vốn đang dần hướng đúng vào các “động cơ sản xuất” của nền kinh tế.
Điểm mới là chính sách tín dụng hiện nay không còn dừng ở việc “bơm vốn” mà chuyển sang “nuôi dưỡng hệ sinh thái”. Khi một doanh nghiệp trong nước được vay ưu đãi để đầu tư dây chuyền hiện đại, đạt chuẩn sản xuất xanh, hàng loạt doanh nghiệp vệ tinh khác cũng được kéo theo vào chuỗi cung ứng. Tác động lan tỏa này lớn hơn nhiều so với các chính sách hỗ trợ đơn lẻ.

Vốn tín dụng được xem là đòn bẩy để doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển. Ảnh: Agribank.
Tuy nhiên, thực tế tiếp cận vốn xanh vẫn còn rào cản. Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thường quy mô nhỏ, thiếu tài sản bảo đảm và khó chứng minh năng lực tài chính dài hạn. Hồ sơ vay xanh lại yêu cầu tiêu chí môi trường, báo cáo ESG và kiểm toán độc lập, khiến chi phí tuân thủ tăng cao. Nếu cơ chế ưu tiên chưa đủ cụ thể và hướng dẫn chưa đồng bộ, dòng vốn vẫn có thể “nghẽn” ngay từ khâu đầu vào.
Một số hướng đi khả thi cho nhóm này, là tập trung vào các dự án có tác động môi trường dễ đo đếm. Những cải tiến về tiết kiệm năng lượng như thay hệ thống chiếu sáng LED, sử dụng động cơ hiệu suất cao, thu hồi nhiệt hoặc lò hơi sạch là nhóm đầu tư có khả năng chứng minh hiệu quả nhanh. Các dự án xử lý chất thải rắn, nước thải và khí thải nếu làm tốt cũng đủ điều kiện để được xếp hạng “xanh”.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể chuyển sang sản xuất linh kiện, vật liệu thân thiện môi trường hoặc tham gia các chương trình, quỹ quốc tế nhằm nhận hỗ trợ kỹ thuật và vốn ưu đãi, như cơ chế bảo lãnh chia sẻ rủi ro cho đầu tư tiết kiệm năng lượng.
Cùng với đó, nhiều công cụ chính sách đang được thiết kế để giảm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp. Mặt bằng lãi suất xanh hiện thấp hơn thông thường, ở mức 4-7%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 9–11%/năm cho trung, dài hạn. Một số lĩnh vực ưu tiên thậm chí có gói dưới 4%/năm.
Dự thảo chính sách cấp bù lãi suất riêng cho công nghiệp hỗ trợ cũng đang được nghiên cứu, với mức 3%/năm, thời hạn hỗ trợ tối đa bằng thời hạn vay nhưng không quá 10 năm, áp dụng cho các khoản vay ký kết và giải ngân đến hết năm 2030.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy Thái Lan đã lập quỹ bảo lãnh tín dụng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa không có tài sản thế chấp vẫn vay được vốn. Hàn Quốc gắn tín dụng dài hạn với hợp đồng cung ứng của các tập đoàn lớn để hình thành mạng lưới công nghiệp hỗ trợ ổn định. Đây là những mô hình Việt Nam có thể tham khảo khi hoàn thiện cơ chế bảo lãnh và cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp trong nước.
Hiện khoảng 78% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh, cho thấy chính sách tiền tệ vẫn giữ vai trò then chốt trong điều hành vĩ mô. Nhưng với công nghiệp hỗ trợ, yêu cầu đặt ra không chỉ là mở rộng quy mô vốn mà còn phải định hướng dòng vốn theo tiêu chí xanh, dài hạn và gắn với năng lực sản xuất thực tế.
Khi doanh nghiệp có điều kiện đầu tư dây chuyền hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và yêu cầu của các tập đoàn quốc tế, họ mới có thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn “thiếu vốn - công nghệ thấp - khó vào chuỗi - khó vay vốn”. Khi đó, tín dụng xanh mới thật sự trở thành chất xúc tác giúp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam bứt phá, giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng tỷ lệ nội địa hóa.
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), Việt Nam hiện có khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, song chỉ vài trăm nhà cung ứng đạt cấp 1-2 trong chuỗi của các tập đoàn đa quốc gia.