Chủ động nguồn lực đầu tư hồ chứa thủy lợi
Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đầu những năm 2000, tư duy về an ninh nguồn nước đã được hình thành. Trước thực trạng thiếu hụt nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là mùa khô, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội đã chỉ đạo cần tạo ra những kho nước (đập hồ chứa nước) lớn cho các vùng miền, làm tiền đề phát triển kinh tế vùng không chỉ cho riêng ngành nông nghiệp mà còn cho đa mục tiêu khác.
Tuy nhiên, việc huy động vốn ưu đãi ODA để đầu tư xây dựng các đập hồ chứa nước gần như rơi vào bế tắc và không khả thi, do các nhà tài trợ, các định chế tài chính còn ngần ngại, các doanh nghiệp, tập đoàn không thể đầu tư và không dám đầu tư. Chính vì vậy, chương trình Trái phiếu Chính phủ ra đời để có đủ nguồn lực tạo ra các kho chứa nước lớn.

Hồ chứa nước Krông Búk hạ được khởi công xây dựng từ tháng 12/2005 (thuộc xã Ea Phê, huyện Krông Pak) với tổng số vốn đầu tư trên 2.081 tỷ đồng bằng nguồn trái phiếu của Chính phủ, do Ban quản lý Đầu tư xây dựng Thủy lợi 8 làm chủ đầu tư. Ảnh: ĐT.
Một loạt công trình lớn của Việt Nam đã được nghiên cứu và hình thành, đó là công trình hồ chứa nước Cửa Đạt (Thanh Hóa), công trình hồ chứa nước Tả Trạch (Huế), công trình hồ Nước Trong (Quảng Ngãi); ở Tây Nguyên là hồ Krông Búk hạ, hồ chứa nước Ia Mơr, hồ Ia Mlah…; hệ thống thủy lợi Phước Hòa, hệ thống thủy lợi hồ Sông Ray cùng rất nhiều công trình phụ trợ khác.
Từ năm 2016 đến nay, Đảng, Nhà nước vẫn dành nguồn lực trọng tâm cho hạ tầng nông nghiệp với tỷ trọng lớn hơn cho thấy tầm quan trọng của ngành nông nghiệp trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Từ nguồn đầu tư công trung hạn bằng ngân sách nhà nước, đã hình thành thêm những công trình thủy lợi chuyển dịch sang hướng đa mục tiêu. Điển hình như hồ Bản Lải, được xây dựng trên sông Kỳ Cùng, cách trung tâm tỉnh Lạng Sơn khoảng 40km, hồ có dung tích hơn 164 triệu m3 nước. Hồ không chỉ có nhiệm vụ chống lũ tiểu mãn và lũ sớm, giảm lũ chính vụ cho thành phố Lạng Sơn cũ và vùng phụ cận, mà còn đảm đương cung cấp nước tưới cho hơn 2.000 ha đất nông nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt cho 122.000 người và cấp nước cho công nghiệp gần 35.500m3/ngày đêm… Trước đó, UBND huyện Lộc Bình (cũ) đã quy hoạch các xã Sàn Viên, Khuất Xá, Tú Đoạn, Tĩnh Bắc (cũ) quanh khu vực hồ và hạ lưu công trình với diện tích 1.000 ha để thu hút đầu tư du lịch sinh thái hồ Bản Lải.
Hay như hồ Sông Lũy, thuộc địa bàn huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận (cũ), với khoảng trời nước bao la, sơn thủy hữu tình, lại nằm cạnh quốc lộ 28B nối tuyến du lịch Bình Thuận - Lâm Đồng, đang mở ra triển vọng mới cho một điểm đến du lịch lý tưởng trong tương lai. Công trình này được khởi công vào cuối tháng 9/2019, cuối năm 2020 bắt đầu tích nước. Khi hoàn thành, dự án có nhiệm vụ cấp nước tưới cho 24.200 ha đất canh tác, đồng thời kết hợp phát điện, giảm lũ hạ du…
Tại Tây Nguyên, mặc dù hồ chứa nước Ea H’leo (tỉnh Đắk Lắk) chỉ có dung tích thiết kế chỉ 25,51 triệu m3 nước, không phải là công trình lớn so với các hệ thống đại thủy nông được xây dựng trong giai đoạn 2016 - 2021, nhưng được thiết kế vô cùng đẹp mắt với đập bê tông dài 312m, chiều cao lớn nhất 59m. Ngoài ra còn hai đập phía vai trái và bờ phải đập bê tông; khu quản lý công trình đầu mối được thiết kế cảnh quan cây xanh và vườn hoa tuyệt đẹp, tạo nên không gian thơ mộng.

Hồ Ea H'leo 1 với cảnh quan hữu tình được hứa hẹn trở thành địa điểm du lịch của Đắk Lắk. Ảnh: ĐT.
Để người dân vãn cảnh và thúc đẩy du lịch, dự án đã xây dựng cả tuyến đường dân sinh quanh hồ. Hiện địa phương bổ sung điểm Du lịch hồ Ea H’leo 1 vào quy hoạch du lịch tỉnh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2045, trong đó chú trọng xây dựng các giải pháp tổ chức triển khai quản lý tốt quy hoạch, tôn tạo và phát huy các lễ hội truyền thống của địa phương gắn với du lịch sinh thái tại hồ. Đồng thời huy động sự vào cuộc của cộng đồng, bảo vệ tốt môi trường sinh thái khu vực xung quanh hồ Ea H’leo 1.
Đồng Mít cũng là hồ chứa có thiết kế và cảnh quan tuyệt đẹp, được khởi công từ cuối tháng 2/2019, tích nước từ tháng 1/2021. Bao bọc quanh công trình hồ chứa nước Đồng Mít là rừng phòng hộ, rừng keo. Màu xanh của cây rừng hòa quyện với màu xanh của nước sông An Lão được tích trữ trong hồ làm nên không gian sinh thái đầy thơ mộng - một điểm đến du lịch mới cho người dân.
Hồ có diện tích lưu vực 163,3km2, dung tích thiết kế gần 90 triệu m3. Hồ Đồng Mít và đập ngăn mặn trên sông Lại Giang khi đi vào vận hành sẽ kết nối với nhau, đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho 276.000 người dân, phục vụ tưới cho 6.742ha đất canh tác vùng hạ du các huyện An Lão, Hoài Ân, thị xã Hoài Nhơn (cũ) cùng các huyện An Lão, thị xã Hoài Nhơn cùng các địa phương phía Bắc huyện Phù Mỹ (cũ) của tỉnh Bình Định, trước khi hợp nhất với tỉnh Gia Lai (thành tỉnh Gia Lai mới)…
Thập kỷ chuyển đổi tư duy và những công trình mang chữ “nhất”
Hàng loạt công trình thủy lợi lớn được xây dựng trong khoảng một thập kỷ qua, cũng cho thấy sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và kỹ thuật xây dựng công trình thủy lợi. Điểm hình như hồ Ngòi Giành, được cơ quan quản lý chuyên ngành về xây dựng công trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường đánh giá là "Hồ có thời gian thi công nhanh nhất Việt Nam". Hồ có dung tích thiết kế gần 37 triệu m3; đập chính là đập bê tông trọng lực dài hơn 240m, chiều cao lớn nhất hơn 70m với tổng mức đầu tư 1.279 tỷ đồng.

Hồ chứa nước Ngòi Giành (tỉnh Phú Thọ). Ảnh: ĐT.
Hồ có chức năng tạo nguồn cho các hồ chứa vừa và nhỏ trong khu vực, góp phần ngăn chặn, giảm thiểu lũ ống, lũ quét, ổn định đời sống cho nhân dân 35 xã khó khăn thuộc các huyện Yên Lập, Cẩm Thê, Thanh Ba (cũ) của tỉnh Phú Thọ. Sau gần 3 năm khẩn trương thi công, ngày 30/11/2021, hồ đã đủ điều kiện chặn dòng, tích nước. Với vị trí thoáng đãng, kỳ vĩ, nơi đây hứa hẹn là điểm du lịch, cắm trại, check in của giới trẻ.
Hồ chứa nước Tân Mỹ (Ninh Thuận cũ, nay là tỉnh Khánh Hòa) là công trình đầu tiên của Việt Nam được đầu tư hệ thống dẫn nước bằng ống áp lực cao để phục vụ tưới cho vùng hạ du. Đặc biệt, ống có đường kính lên tới 2m, tổng chiều dài 30.000m, chịu được áp lực rất lớn, là hệ thống đường ống dẫn nước hiện đại nhất nước ta đến thời điểm này. Giải pháp đường ống dẫn nước là hình mẫu cho công tác quản lý vận hành tự động hóa, hiện đại hóa, thay đổi tư duy, nâng tầm an ninh nguồn nước (chuyển nước lưu vực) từ hệ thống kênh sang hệ thống dẫn nước. Kênh bằng ống kín rất phù hợp cho nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng. Trước đây, người dân muốn sản xuất nông nghiệp theo quy mô đại trang trại phải tạo áp mới có thể sử dụng, còn nay có sẵn, người dân chỉ việc sử dụng.

Đập hồ chứa nước Sông Cái, Hệ thống chuyển nước Tân Mỹ có thể chuyển nước cho các hồ Bà Râu, Sông Trâu, Ông Kinh bằng hệ thống đường ống thép chịu áp lực cao. Ảnh: ĐT.
Trong năm nay, dự kiến một công trình thủy lợi lớn cũng sẽ được khánh thành nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, đó là hồ chứa nước Bản Mồng. Đây là công trình thủy lợi lớn nhất Nghệ An, được xây dựng trên thượng nguồn sông Hiếu, thuộc huyện Quỳ Hợp với tổng mức đầu tư hơn 3.700 tỷ đồng. Điểm đặc biệt của công trình, là quá trình thi công lần đầu tiên đưa vào thí nghiệm đánh giá sử dụng tro bay trong bê tông khối lớn và đã thành công. Nhiệm vụ chính của hồ là cấp nước tưới cho 18.871 ha đất canh tác ven sông Hiếu, trong đó có 2.713 ha tưới tự chảy, còn lại tưới bằng động lực. Cấp nước cho sông Cả vào mùa kiệt khoảng 22m3/s. Phát điện với công suất lắp máy 42 MW (nhà máy thủy điện kiểu sau đập, kết hợp với phát điện theo quy trình cấp nước tưới)…
Khi nhắc đến sự trưởng thành trong tư duy đầu tư xây dựng các công trình cống thủy lợi trên sông, không thể không nhắc tới “siêu cống thủy lợi” lớn nhất Việt Nam là Cái Lớn - Cái Bé. Trong đó cống Cái Lớn có chiều dài 455m, gồm 11 khoang, mỗi khoang rộng 40m. Cống Cái Bé gồm 2 khoang, mỗi khoang rộng 35m, âu thuyền rộng 15m. Cống Xẻo Rô rộng 42m, gồm 2 cống 2 đầu, tạo thành âu thuyền. Cầu giao thông trên các cống quy mô 2 làn xe được kết nối với Quốc lộ 61 bằng tuyến đê có chiều dài 5,8km.

Cống Cái Lớn - Cái Bé được ví là "siêu cống thủy lợi lớn nhất Việt Nam". Ảnh: ĐT.
Đây là công trình kiểm soát mặn lợ ngọt lớn nhất Đông Nam Á, tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững đối với các mô hính ản xuất theo hệ sinh thái (ngọt, mặn - lợ; ngọt - lợ luân phiên) cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên lên tới hơn 384ha thuộc địa bàn các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu (cũ). Công trình còn có nhiệm vụ quan trọng là kết hợp cùng với tuyến đê và các cống ven biển Tây tạo thành vành đai phòng, chống thiên tai từ biển như nước biển dâng, giảm tác động nước dâng của bão.
Ngoài ra, vùng ĐBSCL còn có một công trình cống thủy lợi đặc biệt, đó là công trình cống âu thuyền Ninh Quới - âu thuyền lớn nhất Việt Nam. Cống nằm trên tuyến kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, thuộc huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu (khởi công tháng 11/2018, khánh thành 11/10/2020). Công trình có 2 cống hở ở hai đầu và buồng âu thuyền dài 150m, rộng thông nước hơn 31m, hình khối kiến trúc công trình được xây dựng hài hòa với cảnh quan môi trường nơi đây.

Âu thuyền Ninh Quới là công trình thủy lợi có âu thuyền lớn nhất Việt Nam. Ảnh: ĐT.
Âu thuyền Ninh Quới điều tiết nước cho trên 80.000ha sản xuất lúa trên đất tôm (mô hình lúa tôm), góp phần hoàn thành việc xây dựng nông thôn mới của huyện Phước Long và Hồng Dân của tỉnh Bạc Liêu (cũ). Đây là dự án trọng điểm nằm trong quy hoạch xây dựng thủy lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long với tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời sự án còn nhằm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, năn mặn giữ ngọt, kết hợp với phát triển giao thông trong vùng.
Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, đến nay cả nước có 904 hệ thống thủy lợi quy mô vừa và lớn phục vụ tưới tiêu từ 200ha trở lên, trong đó có 110 hệ thống quy mô tưới trên 2.000 ha, 6.336 hồ chứa thủy lợi, gần 16.000 đập dâng, hơn 19.400 trạm bơm điện lớn, 5.500 cống tưới tiêu lớn, trên 291.000km kênh mương.
Với hệ thống thủy lợi đã được xây dựng, đến nay cả nước đã đảm bảo cấp nước cho khoảng 4,28 triệu ha trong tổng số 6,25 triệu ha đất nông nghiệp cần tưới (chiếm 68,48%). Về hiệu quả phục vụ, theo thống kê trong điều kiện thời tiết bình thường, công trình thủy lợi vùng Miền núi phía Bắc, Trung Bộ, Tây Nguyên đảm bảo tưới được 75% công suất thiết kế; ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đạt trên 90%.
Trong đó, hằng năm tưới cho lúa khoảng 7,26 triệu ha gieo trồng (đạt 95%); diện tích tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng cạn đạt gần 0,29 triệu ha trong tổng số 2,4 triệu ha; cấp nước cho nuôi trồng thủy sản 686.600 ha và khoảng 6,5 triệu tỷ m3 nước cho sinh hoạt, công nghiệp; bảo đảm phòng, chống lũ, chống ngập cho các đô thị, khu dân cư, bảo vệ sản xuất, cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha. Thủy lợi đóng góp đưa sản lượng lúa đạt trên 43 triệu tấn, 1,3 triệu tấn cà phê nhân, 1,5 triệu tấn chè, 16 triệu tấn rau màu, trên 8,5 triệu tấn cây ăn quả, 7,56 triệu tấn thủy sản.
Ngân hàng Thế giới (Word Bank) nhiều lần đánh giá Việt Nam là quốc gia có hạ tầng thủy lợi nhiều và tốt bậc nhất thế giới. Với hệ thống 290.000 trạm bơm lớn nhỏ khác nhau, 170.000 công trình kênh mương có tổng chiều dài hàng triệu km, hệ thống điều chỉnh, điều hòa nguồn nước trong mạng lưới các hồ thủy lợi đã trở thành nền tảng để ngành nông nghiệp tái cơ cấu hợp lý, giúp ngành nông nghiệp Việt Nam có đủ nước để có thể chủ động sản xuất.