| Hotline: 0983.970.780

Quốc hội thảo luận về Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Thứ Ba 20/06/2023 , 16:19 (GMT+7)

Chiều 20/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Tài nguyên nước

Quốc hội thảo luận về Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Trường Giang - Khương Trung {Ngày xuất bản}

Chiều 20/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Theo Tờ trình của Chính phủ, qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước. Tài nguyên nước đã được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Mục tiêu của dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.

Bên cạnh đó, Luật sẽ hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân. Đồng thời, sẽ chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về: giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; đẩy mạnh xã hội hoá…

Dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi gồm 83 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 9 điều; sửa đổi, bổ sung 59 điều; bổ sung mới 15 điều) và bãi bỏ 13 điều.

070620230942-z4394833647832_ed440667ad64b8fbfe99a2733a7a1ef4.jpg
Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV

Về phạm vi điều chỉnh, quy định tại dự thảo luật về cơ bản giữ nguyên như Luật 2012. Theo đó, luật này quy định về quản lý, bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nước dưới đất và nước biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước khoáng, nước nóng thiên nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

Tại phiên thảo luận, các Đại biểu Quốc hội cơ bản thống nhất với Tờ trình, báo cáo thẩm tra dự án luật và báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến tại Tổ của cơ quan soạn thảo và đánh giá hồ sơ dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu tác động, các cơ quan quản lý có liên quan; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; tiếp thu nghiêm túc nhiều ý kiến thẩm tra, góp ý.

Phát biểu tại phiên họp, Đại biểu Tráng A Dương – Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang đánh giá cao sự tích cực của cơ quan soạn thảo trong việc tiếp thu, giải trình ý kiến đầy đủ của các Đại biểu tại phiên thảo luận Tổ.

Góp ý vào Dự thảo Luật, Đại biểu cho rằng, về phạm vi điều chỉnh tại khoản 2, điều 1 Dự thảo Luật quy định nước nóng thiên nhiên, nước khoáng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này, như vậy nước nóng thiên nhiên, nước khoáng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khoáng sản. Tuy nhiên, 2 loại nước này là tài nguyên nước, tồn tại tại các tầng chứa nước dưới đất, có khả năng tái tạo không như các loại khoáng sản khác. Do đó, Đại biểu đề nghị quy định nước nóng thiên nhiên, nước khoáng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tài nguyên nước để đảm bảo việc thống nhất quản lý; đồng thời cần quy định cụ thể về 2 loại nước này quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả phục vụ nhu cầu của nhân dân, du lịch…

Về giải thích thuật ngữ tại điều 5, Đại biểu Tráng A Dương cũng đề nghị làm rõ khái niệm “phát triển tài nguyên nước” vì để phát triển tài nguyên nước cần bảo vệ phát triển tài nguyên rừng (nguồn sinh thủy), bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, cần xây dựng các công trình chứa nước đa mục tiêu… ngoài ra, phải có giải pháp gắn kết quy hoạch tài nguyên nước với quy hoạch phát triển rừng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, do đó Đại biểu đề nghị làm rõ khái niệm này.

Cũng theo Đại biểu Tráng A Dương, để đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, chú trọng phòng ngừa, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm, Dự thảo Luật đã có quy định từ điều 23 đến điều 35, trong đó quy định trách nhiệm của một số Bộ ngành, địa phương, tuy nhiên việc quản lý tài nguyên nước là quản lý đa ngành, tổng hợp, có nhiều yếu tố, nguyên nhân dẫn tới việc suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước như: đô thị hóa, nước thải công nghiệp, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật… Do đó, Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong liên quan tới việc bảo vệ phòng ngừa phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm.

Xem thêm
An Giang góp ý cơ chế đặc thù triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản

An Giang An Giang kiến nghị bổ sung cơ chế đặc thù cấp phép khai thác khoáng sản phục vụ dự án trọng điểm khi triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản.

Việt Nam khẳng định vai trò tích cực trong quản lý môi trường biển Đông Á

Việt Nam đã chia sẻ nhiều sáng kiến, kinh nghiệm trong quản lý, bảo vệ biển tại Hội nghị lần thứ 17 Hội đồng Đối tác về Quản lý môi trường các biển Đông Á.

Bình luận mới nhất