Từng được coi là “thủ phủ” bò sữa nông hộ, có thời điểm đàn bò sữa của xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ lên tới hơn 30.000 con. Thế nhưng đến nay, tổng đàn chỉ còn hơn 20.000 con và xu hướng vẫn tiếp tục giảm. Đáng báo động hơn, nguyên nhân khiến tổng đàn lao dốc không chỉ do dịch bệnh hay thị trường, mà chủ yếu xuất phát từ việc sữa tươi mất dần tính ổn định trong tiêu thụ.
Ông Hà Văn Long, xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ cho biết, chúng tôi có thể vẫn bám nghề vì đã gắn bó cả đời, nhưng con cháu thì không còn muốn tiếp tục nữa. Thấy khó khăn chồng chất, rủi ro cao, đầu ra lại quá bấp bênh, các cháu nản lòng. Ảnh: Duy Học.
Theo phản ánh của người dân, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thu mua sữa đã liên tục cắt giảm sản lượng, thậm chí có nơi thông báo dừng thu mua hoàn toàn sau ngày 31/12/2025. Đầu ra bị “khóa” đột ngột khiến nhiều hộ chăn nuôi lâm vào cảnh bị động, loay hoay tìm hướng xoay xở.
Hệ lụy dễ thấy nhất là bê cái sinh ra không được giữ lại làm giống mà buộc phải bán làm bê thịt. Điều này không chỉ khiến quy mô đàn suy giảm nhanh chóng, mà còn tác động nghiêm trọng đến khả năng khôi phục và phát triển đàn bò sữa trong những năm tới.
Là người trực tiếp tham gia Tổ hợp tác chăn nuôi bò sữa ở địa phương, ông Hà Văn Long, xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ cho biết: “Chỉ trong 5 năm, từ 2020 đến nay, đàn bò của xã đã giảm khoảng 30%. Giai đoạn cao điểm có từ 26.000 - 27.000 con, nay chỉ còn khoảng 21.000 -22.000 con”.
Theo ông Long, nguyên nhân lớn nhất là do ảnh hưởng từ công tác thu mua của các nhà máy chế biến sữa. “Công ty mới gửi thông báo sẽ ngừng thu mua từ đầu năm 2026. Điều này tác động trực tiếp đến tâm lý người chăn nuôi. Sữa làm ra không biết bán cho ai thì làm sao còn dám đầu tư”, ông chia sẻ.
Không chỉ mất đầu ra, người nuôi bò sữa còn phải gánh rủi ro kép về chi phí. Sữa tươi là sản phẩm không thể tồn trữ dài ngày, ngày nào vắt sữa thì ngày đó buộc phải tiêu thụ. Trong khi đó, bò vẫn phải ăn, vẫn phải đầu tư thức ăn, công chăm sóc, thú y… Nếu không có doanh nghiệp thu mua ổn định, nguy cơ “ùn tắc” không phải là sữa mà là… kinh tế của người chăn nuôi.
Thực tế cho thấy, sản lượng sữa tại địa phương đã giảm khoảng 20% so với năm 2020. Nhiều hộ đành chấp nhận “nuôi cầm chừng”, thậm chí bán bớt bò để giảm lỗ.
Một trong những khó khăn lớn khác là vấn đề đất đai cho chăn nuôi và trồng cỏ. Theo người dân, trước đây việc phát triển bò sữa gắn liền với các dự án của trung ương và ngành nông nghiệp, nên vùng nguyên liệu trồng cỏ được quy hoạch tương đối bài bản. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh khiến diện tích trồng cỏ ngày càng bị thu hẹp.
“Nếu không có quy hoạch rõ ràng về quỹ đất cho chăn nuôi và vùng nguyên liệu, thì dù người dân có muốn phát triển cũng rất khó. Đất trồng cỏ ngày càng ít, chi phí thức ăn ngày càng cao”, ông Long bày tỏ.
Có thời điểm đàn bò sữa của xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ lên tới hơn 30.000 con. Thế nhưng đến nay, tổng đàn chỉ còn hơn 20.000 con và xu hướng vẫn tiếp tục giảm. Ảnh: Duy Học.
Bên cạnh đó, công tác phòng chống dịch bệnh cũng cần sự quan tâm chặt chẽ hơn từ chính quyền địa phương để hình thành vùng nguyên liệu sữa an toàn dịch bệnh bền vững. Dù hiện nay bà con đã chủ động hơn trong phòng dịch, nhưng để phát triển lâu dài vẫn rất cần sự chỉ đạo đồng bộ từ các cấp.
Điều người chăn nuôi mong mỏi nhất vẫn là có được những hợp đồng tiêu thụ sữa nguyên liệu dài hạn, ổn định, minh bạch về chất lượng, giá cả. Theo ông Long, trước đây hợp đồng thu mua chỉ kéo dài 2 năm, chưa kịp ổn định thì đã bị cắt, khiến người dân bị “sốc” và mất niềm tin.
“Chúng tôi có thể vẫn bám nghề vì đã gắn bó cả đời, nhưng con cháu thì không còn muốn tiếp tục nữa. Thấy khó khăn chồng chất, rủi ro cao, đầu ra lại quá bấp bênh, các cháu nản lòng. Nghĩ đến điều đó, chúng tôi vừa buồn, vừa lo cho tương lai nghề bò sữa”, ông Long trăn trở.
Trước những khó khăn bủa vây, việc khôi phục lòng tin cho người chăn nuôi không thể chỉ dừng lại ở giải pháp “giải cứu” tạm thời. Ngành bò sữa cần những quyết sách mang tầm nhìn dài hạn, từ quy hoạch vùng chăn nuôi, liên kết chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu thụ, đến chính sách tín dụng, đất đai, khoa học công nghệ.





























