Cách đây 15 năm, vào những năm 2000-2001, đàn voi dữ ở rừng Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận tàn phá dữ dội, tấn công người liên tục, đến mức Chính phủ phải mời một đoàn chuyên gia ở nước ngoài về di dời đàn voi này lên Vườn Quốc gia York Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
Lúc đó tôi từ Chi nhánh Báo Nông nghiệp Việt Nam tại TP HCM ra TP Nha Trang (Khánh Hòa) phụ trách tạm thời văn phòng Miền Trung - Tây Nguyên thay cho đồng chí Trưởng Văn phòng ra Hà Nội công tác.
Trong khi voi rừng phá hoại đang gây “sốt” dư luận thì phóng viên của Văn phòng “mỏng”, đều đã đi công tác hết, không còn cách nào khác là tôi đích thân đi Bình Thuận theo dõi vụ việc.
Anh Trịnh Bá Ninh, Phó Tổng Biên tập điện thoại vào chỉ đạo trực tiếp: “Cố gắng theo đoàn ít hôm, viết cô đọng nhưng đầy đủ thông tin, bài gửi ra toà soạn trước 4 giờ chiều, còn hình ảnh phải gửi ra sớm hơn và phải báo trước có mấy hình để tòa soạn biết mà dàn trang”.
Phải nói rằng thời điểm đó, việc chuyển tin, bài, nhất là hình ảnh kèm theo ra Tòa soạn rất khó khăn do hệ thống mạng internet còn yếu, chủ yếu sử dụng đường truyền Vnn 1269 nối qua dây điện thoại cố định (chưa có cáp đồng, cáp quang như hiện nay) nên tốc độ “chạy” rất chậm.
Một tấm hình màu thông thường nặng tầm 104 KB thì phải chờ ít nhất 10-15 phút, mà mỗi lần truyền phải từ 2 hình ảnh trở lên nên có lúc ngồi chờ cả tiếng đồng hồ.
Lúc đó, tôi sử dụng máy ảnh cơ học, chụp xong rửa phim rồi mới scan hình. Từ đó lưu hình (ảnh) vào đĩa A đưa đến các tiệm internet hoặc bưu điện để gửi email cho Tòa soạn.
Mà đi theo đoàn săn bắt voi bắt buộc phải có “hình sống” thời sự kèm theo, chứ hình "chết", hình "thiu" là không được.
Để tiếp cận hiện trường thu thập thông tin kịp thời đầy đủ, tôi điện thoại cho ông Nguyễn Văn Dũng, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận làm Phó trưởng ban Thường trực Ban Điều hành dự án di dời voi, còn gọi là “đoàn săn voi” (Trưởng ban lúc đó là ông Nguyễn Bá Thụ, Cục trưởng Cục Kiểm lâm) để xin đi theo.
Dù quen biết trước nhưng ông Dũng cũng phải từ chối nói: “Nhiều báo, kể cả báo địa phương đăng ký nhưng cũng không được, vì chúng tôi phải bảo đảm an toàn tính mạng do đi đông người trong rừng rất nguy hiểm. Hiện chỉ có hai nhà báo của Đài Truyền hình VN là có tên trong danh sách thôi”.
Như vậy, PV của VTV được ưu tiên ăn ở sinh hoạt và được đi theo “đoàn săn bắt”, còn phóng viên các báo khác muốn săn tin, chụp ảnh để gửi tin, bài cho Tòa soạn thì phải tìm “kênh” khác và tôi cũng không phải là ngoại lệ.
Theo kế hoạch, bắt đầu ngày 12/11/2001 (thứ Bảy) đoàn sẽ chính thức vào rừng bắt đợt 1. Như vậy, tôi có được 2 ngày (thứ Bảy, Chủ nhật) để nắm bắt thông tin viết tin, bài cho báo in vào sáng thứ 2 tuần tới.
Ngày 11/11 (thứ Sáu), tôi đến UBND xã Tân Minh tìm ông Nguyễn Thận, lúc đó là Chủ tịch xã, vốn là người bạn rất thân thiết của cánh báo chí.
Ông Thận phân công một dân quân chở tôi lên Lâm trường Tánh Linh nay là Cty TNHH MTV Lâm nghiệp Tánh Linh nằm trên địa bàn xã Gia Huynh tạm thời “săn tin” ở đó.
Sáng sớm hôm sau (ngày 12/11) đoàn chuyên gia chính thức xuất trận bất ngờ đụng độ ngay đàn voi ở chân núi Xả Zú sát đường lộ, sau đó bắn 2 phát súng gây mê rồi rút quân vì sợ đàn voi phản công.
Ngay tối hôm đó, đài VTV đưa tin đoàn chuyên gia bắn gây mê được một con và bắt trói dưới chân núi. Qua ngày 13/11 (Chủ nhật), tôi hỏi ông Huỳnh Ngự, lúc đó là Giám đốc Lâm trường về thông tin 1 con voi bắt được.
Ông Ngự phân vân nói: “Đoàn bắn 2 phát chắc phải 2 con, vậy 1 con nữa đi đâu? Chiều qua, tôi nghe mấy hộ người dân tộc sống dưới chân núi Xả Zú nói ở thời điểm đoàn chuyên gia bắn gây mê còn có thấy 1 con chạy trên đỉnh núi rồi chết?”.
Vì ngày đầu tiên đoàn triển khai bắt voi nên để 1 con voi chết, thật sự là thông tin nóng nhưng lại gây “sốc”.
Sau đó, ông Ngự phân công một nhân viên phân trường nắm vững địa hình chở tôi lên đỉnh núi Xả Zú để đi tìm con voi chết.
Vừa đi lên đỉnh là đúng vào nơi con voi chết trong tư thế hai chân trước co lên, hai chân sau khụy xuống và cái vòi thì ngẩng lên trời rất “bi tráng”. Lúc này cũng có khá đông người đồng bào dân tộc đến xem.
Tôi lập tức trở lại văn phòng Lâm trường, nhờ máy vi tính tại đây để viết bài với tít đặt: “Vì sao voi chết?”. Do đường truyền liên tục gặp trục trặc nên phải in ra giấy, sau đó fax nhờ từ văn phòng Lâm trường ra Tòa soạn.
Riêng về hình ảnh “voi chết” vì chụp phim nên phải tìm chỗ rửa hình, sau đó scan hình rồi mới gửi email được. Từ chỗ Lâm trường chạy lên thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh phải mất khoảng 9-10 km nhưng tôi băn khoăn là không biết thế nào, liệu có đáp ứng yêu cầu không?
Cuối cùng ba bảy phải liều, bởi dù sao bài viết có hình kèm theo vẫn có sức thuyết phục hơn, nhất là tờ báo ngành.
Thật may mắn, ngay tại thị trấn Lạc Tánh đều có đủ cả. Sau khi rửa phim, scan hình lưu vào đĩa A, tôi chạy ngay vào một tiệm internet gửi hình ra tòa soạn bằng đường truyền di-up.
Lúc đó, đĩa A chỉ có dung lượng 1,4 Megabyte (chứa khoảng vài hình là đầy), lúc đưa vào ổ đĩa thì kêu rẹt rẹt do ổ cứng CPU đọc tốc độ rất chậm. Tôi vừa thắc thỏm vừa sốt ruột. Cuối cùng trên màn hình email báo “đã gửi”.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, chỉ có một thông tin trên 800 chữ cùng một tấm hình mà đã phải chạy ngược, chạy xuôi mất gần 2 ngày trời.
Lúc đó chiều vẫn chưa muộn, tôi tức tốc quay trở lại Văn phòng Nha Trang để trở lại công việc chính của mình. Ngồi trên xe mà trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng niềm vui của tôi lại chùng xuống khi nghĩ đến con voi bị chết. Điều đó cho thấy việc giải cứu đàn voi rừng đã ít nhiều bị sứt mẻ. Thậm chí có những bài báo lên án gay gắt các chuyên gia đã để xảy ra những lỗi kỹ thuật rất lớn khi bắn thuốc mê cho voi.