Ngày 23/12, tại phường Bà Rịa, Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM tổ chức hội nghị sơ kết thực hiện chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đồng thời triển khai Nghị quyết số 496/NQ-HĐND của HĐND TP.HCM về áp dụng chính sách liên kết sau sắp xếp địa giới hành chính.
Hội nghị diễn ra trong bối cảnh TP.HCM vừa hoàn tất hợp nhất với tỉnh Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, mở ra không gian phát triển mới cho lĩnh vực nông nghiệp.
Hội nghị bàn giải pháp phát triển liên kết nông nghiệp TP.HCM sau sắp xếp địa giới hành chính, diễn ra tại phường Bà Rịa. Ảnh: Vân Anh.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM, sau sáp nhập vào tháng 7/2025, năng suất lao động nông nghiệp của thành phố tăng bình quân khoảng 16% mỗi năm. Hiện toàn thành phố có hơn 426 hợp tác xã nông nghiệp, 1.232 tổ hợp tác và 1.347 trang trại hoạt động ổn định. Chương trình OCOP tiếp tục được mở rộng với 416 chủ thể tham gia, phát triển 1.006 sản phẩm, trong đó có 786 sản phẩm đạt 3 sao và 220 sản phẩm đạt 4 sao. Những con số này cho thấy nông nghiệp không chỉ giữ vai trò “vành đai xanh” mà đang trở thành một cấu phần quan trọng trong bức tranh kinh tế đô thị mở rộng của TP.HCM.
Cùng với đó, chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP được triển khai khá đồng bộ. Đến nay, thành phố đã hỗ trợ 27 trong tổng số 33 dự án, mô hình liên kết, gồm 12 mô hình cấp tỉnh và 15 mô hình cấp huyện, với tổng kinh phí khoảng 70 tỷ đồng. Nhiều mô hình liên kết từ chăn nuôi công nghiệp, cây ăn trái tập trung, nuôi trồng thủy sản quy mô lớn đến nông nghiệp đô thị ứng dụng công nghệ cao đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và ổn định đầu ra cho nông sản.
Tại hội nghị, đại diện các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và hợp tác xã đã thẳng thắn chia sẻ những kinh nghiệm cũng như khó khăn trong quá trình liên kết. Từ góc độ thương mại, Thạc sĩ Cấn Sơn Tùng, Sở Công Thương TP.HCM cho rằng, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, kết nối tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị không còn là lựa chọn mà là yêu cầu tất yếu.
Sau sáp nhập, quy mô dân số TP.HCM khoảng 14 triệu người, nhu cầu lương thực, thực phẩm tăng cao, đòi hỏi phải hình thành các mối liên kết chặt chẽ giữa vùng sản xuất, khâu lưu thông và hệ thống phân phối để vừa bảo đảm sản lượng, vừa đáp ứng yêu cầu an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.
Theo ông Tùng, thành phố đang tập trung phát triển hệ thống phân phối hiện đại, mở rộng kênh bán lẻ qua siêu thị, trung tâm thương mại và thương mại điện tử, gắn với logistics và kho lạnh nhằm giảm chi phí và hạn chế thất thoát sau thu hoạch. Đây được xem là hướng đi quan trọng để giảm khâu trung gian, gia tăng giá trị nông sản, từng bước đưa nông sản TP.HCM tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường và Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM tặng giấy khen cho các tập thể có thành tích đóng góp tích cực trong triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp góp phần vào sự phát triển chung của Thành phố. Ảnh: Vân Anh.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Trường Giang, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Trang Linh (xã Xuyên Mộc) cho rằng, phát triển trang trại tập trung gắn với liên kết đầu vào và đầu ra, áp dụng đệm lót sinh học và kết nối với cơ sở giết mổ đạt chuẩn là giải pháp giúp giảm chi phí, bảo vệ môi trường và ổn định thị trường. Doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước hỗ trợ gắn chăn nuôi với các cơ sở giết mổ tập trung, đồng thời xây dựng điểm bán thực phẩm bình ổn tại chợ truyền thống để bảo đảm truy xuất nguồn gốc và đưa sản phẩm sạch đến tay người tiêu dùng với giá hợp lý.
Trong khi đó, đại diện hợp tác xã lại chỉ ra nhiều “nút thắt” khiến liên kết chưa bền vững. Ông Nguyễn Trọng Trung, Giám đốc Hợp tác xã Bưởi da xanh Hắc Dịch (phường Tân Thành) cho rằng, chi phí tuân thủ tiêu chuẩn, duy trì VietGAP, mã số vùng trồng, nhật ký canh tác và truy xuất nguồn gốc vẫn còn cao, trong khi nhiều nông hộ quy mô nhỏ thiếu nhân lực quản trị. Bên cạnh đó, rủi ro thị trường và biến động giá cả vẫn khiến một số chuỗi liên kết có nguy cơ đứt gãy, làm giảm niềm tin giữa các bên tham gia.
Nhiều hợp tác xã cũng kiến nghị cần ưu tiên đầu tư hạ tầng sau thu hoạch ở quy mô vùng, như kho mát, sơ chế, đóng gói và logistics, bởi đây là những khâu quyết định chất lượng sản phẩm và khả năng mở rộng thị trường, đặc biệt với mục tiêu xuất khẩu.
Phát biểu kết luận hội nghị, ông Nguyễn Văn Đa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM nhấn mạnh, việc triển khai Nghị định 98 và Nghị quyết 496/NQ-HĐND là bước ngoặt quan trọng, tạo hành lang pháp lý để áp dụng các chính sách ưu việt về liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản trên địa bàn thành phố sau sắp xếp.
Ông Đa khẳng định: “Liên kết không chỉ là cái ‘bắt tay’ giữa nông dân và doanh nghiệp, mà phải là sự gắn kết chặt chẽ, chuyên nghiệp từ đầu vào đến đầu ra, gắn sản xuất với thị trường và nhu cầu tiêu dùng của một đô thị lớn, hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững trong giai đoạn mới”.


















