TP.HCM đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi tốc độ đô thị hóa gia tăng mạnh mẽ và không gian thành phố được mở rộng sau sáp nhập. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải tái định hình nông nghiệp đô thị, vừa mang tính sinh kế, vừa là cấu phần quan trọng của không gian xanh và khả năng thích ứng khí hậu.
Báo Nông nghiệp và Môi trường có cuộc trao đổi với TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn về những gợi mở định hướng, cơ chế đặc thù và mô hình phát triển mà TP.HCM cần chuẩn bị cho giai đoạn tới.
TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn. Ảnh: Lê Bình.
Thưa ông, sau khi TP.HCM mở rộng địa giới và tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh, đặc biệt là việc sáp nhập hai tỉnh lân cận, ông nhìn nhận hướng đi cho nông nghiệp đô thị trong giai đoạn mới ra sao?
Sau khi mở rộng không gian hành chính, TP.HCM hiện có hơn 6.700 km² diện tích và dân số vượt 14 triệu người. Quy mô mới giúp thành phố tiếp tục giữ vị thế đầu tàu kinh tế khi đóng góp khoảng 1/4 GDP và hơn 30% ngân sách cả nước. Trong chiến lược phát triển sắp tới, TP.HCM không xem nông nghiệp như một ngành phụ trợ mà là một cấu phần quan trọng của đô thị sinh thái. Nơi đây sẽ sản xuất đi liền với tăng diện tích xanh, cải thiện vi khí hậu và hỗ trợ thành phố thích ứng biến đổi khí hậu.
Với hơn 454.000 ha đất nông nghiệp bổ sung sau sáp nhập, TP.HCM có điều kiện phân vùng sản xuất quy mô lớn, tránh tình trạng manh mún lâu nay. Theo định hướng, khu vực nội đô cũ sẽ tập trung nghiên cứu giống và nông nghiệp công nghệ cao. Vùng Bình Dương phù hợp cây công nghiệp, chăn nuôi quy mô lớn. Còn Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy thế mạnh thủy sản kết hợp du lịch nông nghiệp. Cách phân bổ này tạo chuỗi liên kết xuyên vùng cho Đông Nam Bộ, từ nghiên cứu, sản xuất và chế biến đến logistics.
Tuy vậy, để các định hướng này thành hiện thực, TP.HCM cần xây dựng một Đề án phát triển nông nghiệp đô thị giai đoạn 2030, tầm nhìn 2045 và trình HĐND ban hành dưới dạng Nghị quyết đặc thù. Có cơ chế thì mới triển khai đồng bộ và tạo được chuyển biến.
Vậy theo ông, trong giai đoạn này TP.HCM cần ưu tiên những nội dung trọng tâm nào về cơ chế chính sách và tổ chức không gian phát triển nông nghiệp đô thị?
Theo tôi, đề án của Thành phố cần làm rõ hai nhóm vấn đề: không gian phát triển và nguồn lực thực thi.
Về không gian, thành phố nên đặt câu hỏi: liệu các mái nhà, dải đất ven sông hay những khoảng trống trong công viên có thể trở thành nơi trồng nông sản ngắn ngày? Những mô hình này không chỉ không xung đột với quy hoạch mà còn giúp giảm phát thải và tạo thêm mảng xanh. Đồng thời, các khu chung cư, vỉa hè vào cuối tuần có thể trở thành địa điểm trưng bày và giao lưu sản phẩm nông nghiệp đô thị của người dân.
Về liên kết vùng, không gian nông nghiệp của TP.HCM cũ vốn hạn chế nên tư duy phát triển phải mở sang khu vực mới, nhất là Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Chẳng hạn, xã Bạch Đằng (Tân Uyên cũ) đã có nhiều mô hình phù hợp để mở rộng vùng canh tác đô thị.
Nông nghiệp đô thị được xác định là một cấu phần của đô thị sinh thái TP.HCM, vừa tạo sinh kế vừa mở rộng không gian xanh và tăng khả năng thích ứng biến đổi khí hậu. Ảnh: Lê Bình.
Về cơ chế vốn, không nhất thiết hỗ trợ tiền trực tiếp mà cần hỗ trợ về thủ tục và xác nhận: chẳng hạn xác nhận vùng nguyên liệu hay hồ sơ giảm phát thải. Đây chính là "giấy thông hành" để doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính xanh. Phần ngân sách nhà nước nên dành cho R&D, đặc biệt cho các trung tâm công nghệ sinh học và phát triển giống.
Cuối cùng là xây dựng tổ chức đại diện. Những mô hình Hợp tác xã hay câu lạc bộ cộng đồng (như hội cựu giáo chức, hội người cao tuổi) có thể trở thành lực lượng nòng cốt. Những người lớn tuổi về hưu hoàn toàn có thể khởi nghiệp nhỏ, làm việc vì đam mê và truyền cảm hứng sản xuất xanh cho cộng đồng.
Thưa ông, để các mục tiêu vừa nêu đi vào thực tế, theo ông mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể cần được tổ chức ra sao?
Phát triển nông nghiệp đô thị chỉ bền vững khi ba chủ thể cùng vận hành: chính quyền, cộng đồng/hợp tác xã và doanh nghiệp. Trong đó, liên kết giữa doanh nghiệp và cộng đồng là trọng tâm, còn Nhà nước đóng vai trò xúc tiến và tháo gỡ thủ tục.
Hợp tác xã của TP.HCM hiện rất nhỏ, nên chính quyền cần hỗ trợ đào tạo, kết nối ngang giữa các đơn vị để hình thành tổ chức quy mô lớn hơn và có thể gắn với du lịch. Thành phố cũng có thể cho phép doanh nghiệp liên kết với trường học để phát triển du lịch học đường.
Theo tôi, việc quan trọng nhất là thí điểm ngay. Cứ chọn một vài địa phương, phối hợp với Hội Nông dân và Phòng Kinh tế làm mô hình thực tế. Không cần đầu tư ngân sách lớn, chỉ cần kế hoạch rõ ràng để doanh nghiệp cùng vào cuộc.
Theo ông, trên thế giới có mô hình nông nghiệp đô thị nào mà TP.HCM có thể tham khảo và vận dụng phù hợp với điều kiện hiện nay?
Tôi cho rằng có ba mô hình quốc tế rất đáng tham khảo.
Hàn Quốc là ví dụ điển hình khi Nhà nước đầu tư hạ tầng như nhà màng, công nghệ và giao cho thanh niên khởi nghiệp vận hành. Họ hoạt động như doanh nghiệp xã hội: sản xuất nông sản, chia sẻ kiến thức và đào tạo thế hệ trẻ. Mô hình từ thử nghiệm đã mở rộng ra tám đô thị.
Thái Lan lại thành công nhờ chuỗi liên kết chặt giữa Hợp tác xã và hệ thống siêu thị - tiêu biểu là Central Retail. Doanh nghiệp đặt hàng từ ngày xuống giống đến quy trình sơ chế, rồi bao tiêu toàn bộ. Cách làm này hoàn toàn có thể áp dụng tại Việt Nam với các nhà bán lẻ lớn.
Nhật Bản phát triển nông nghiệp đô thị song hành với du lịch và giao lưu văn hóa. Các thành phố như Tokyo, Osaka hay Kyoto thường xuyên tổ chức lễ hội, hội chợ để nông dân giao lưu, quảng bá sản phẩm, cả trực tiếp lẫn trực tuyến.
Mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp tầng cao và sản xuất khép kín được xem là hướng đi phù hợp với đặc thù quỹ đất hạn chế của đô thị lớn như TP.HCM. Ảnh: Lê Bình.
Ngoài những đề xuất trên, ông cho rằng TP.HCM nên ưu tiên ứng dụng những công nghệ hoặc mô hình sản xuất nào trong nông nghiệp đô thị?
Theo tôi, công nghệ cao chính là yếu tố quyết định để nông nghiệp đô thị trở thành một ngành sản xuất có giá trị và đủ sức hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư lâu dài.
TP.HCM cần ưu tiên những mô hình đang chứng minh hiệu quả như nông nghiệp tầng cao, hệ thống tủ trồng rau nhiều ngăn hay mô hình Aquaponics kết hợp trồng rau và nuôi cá theo chu trình khép kín. Đây đều là những hướng đi phù hợp với đặc thù đô thị: diện tích nhỏ, yêu cầu kiểm soát chặt chẽ và sản xuất liên tục.
Công nghệ giúp biến hạn chế không gian thành lợi thế cạnh tranh. Khi áp dụng đúng, cùng một diện tích có thể tăng số vụ thu hoạch, tăng năng suất và tạo ra sản lượng lớn trong thời gian ngắn. Điều này đặc biệt quan trọng với đô thị lớn như TP.HCM, nơi nhu cầu tiêu thụ khổng lồ nhưng quỹ đất nông nghiệp lại thu hẹp nhanh. Việc mở rộng các mô hình công nghệ cao cũng tạo điều kiện hình thành chuỗi cung ứng an toàn, minh bạch và chuẩn hóa hơn, từ đó giải quyết được bài toán sản xuất hàng hóa quy mô ngay trong lòng đô thị.
Xin cảm ơn ông.















![An sinh từ ruộng đồng: [Bài 2] Ông Liêm - Người thắp lửa thoát nghèo](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/content/2025/12/17/dsc06658-160900_687-082447.jpg)


