| Hotline: 0983.970.780

‘Giải cơn khát’ cho dân nghèo: Những bước chân mở đường tìm ‘mạch sống’

Thứ Năm 09/10/2025 , 15:25 (GMT+7)

Hàng triệu dân nghèo vùng núi cao, vùng khan hiếm nước có nguồn nước sạch nhờ Dự án 'Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước'.

Nỗi nhọc nhằn của những bước chân gùi nước

Sáng trên cao nguyên đá Đồng Văn, sương còn bảng lảng quanh vách núi tai mèo. Trong góc sân nhỏ, chị Sùng Thị Dế lúi húi múc những gáo nước đầu tiên từ chiếc vòi mới lắp bên cạnh bể chứa. Dòng nước trong vắt chảy róc rách, ánh lên lấp lánh như xua tan cả bao năm tháng nhọc nhằn của những chuyến gùi nước triền miên.

“Cả đời tôi chưa bao giờ nghĩ có ngày ngay trong bản cũng có nước sạch thế này. Trước kia, mùa khô chúng tôi phải dậy từ tờ mờ sáng, đi cả chục cây số, trèo đèo, băng đá để tìm một hốc nước nhỏ, rồi gùi từng can về. Có hôm vừa đến nơi thì hốc đá đã cạn, cả nhóm phụ nữ lại tiu nghỉu quay về tay trắng”, chị Dế kể, giọng vẫn chưa hết xúc động.

Những người phụ nữ vùng cao gánh bồn nước về nhà. Ảnh: Minh Hoàng.

Những người phụ nữ vùng cao gánh bồn nước về nhà. Ảnh: Minh Hoàng.

Ở bản bên cạnh, chị Vàng Thị Mỷ, năm nay 32 tuổi, vẫn nhớ như in những tháng ngày gùi nước cùng mẹ từ khi mới 10 tuổi. “Hồi bé, tôi thường phải nghỉ học vài buổi trong tuần để đi lấy nước cùng mẹ. Con đường từ bản ra hốc đá xa hun hút, dốc dựng đứng, đi từ lúc trời còn mờ sương đến tận trưa mới về tới nhà. Mỗi lần trở về, đôi vai bé nhỏ của tôi hằn lên những vệt đỏ thâm tím vì quai gùi cọ vào da, hai tay run rẩy vì chiếc can nước quá nặng. Vào mùa đông, cái rét cắt da cắt thịt khiến đôi chân nứt nẻ, rớm máu, nhưng vẫn phải bước cho kịp. Lớn lên, lập gia đình rồi sinh con, tôi lại tiếp tục cái vòng quay cũ: gùi nước cho chồng con, cho cả gia đình. Bao nhiêu năm qua, đời tôi chỉ quẩn quanh trong cái vòng luẩn quẩn khát - đi tìm - gùi, cứ thế lặp đi lặp lại không biết đến bao giờ mới dứt”.

Con đường 'tìm nước' mỗi ngày là ở vực cánh rừng đầu nguồn, đường đi cheo lao, dốc thẳng đứng. Ảnh: Minh Hoàng

Con đường “tìm nước” mỗi ngày là ở vực cánh rừng đầu nguồn, đường đi cheo lao, dốc thẳng đứng. Ảnh: Minh Hoàng

Không chỉ phụ nữ, cánh đàn ông cũng thấm thía nỗi khổ thiếu nước. Ông Giàng A Páo, lão nông ngoài 60 tuổi, rít hơi thuốc lào rồi chậm rãi nói: “Ngày trước, mùa khô muốn có một nồi nước nấu cơm phải đi mười mấy cây số. Con gái, con dâu trong nhà gùi nặng lắm, có hôm về đến nơi nước đã vơi nửa can. Giờ chỉ cần mở vòi là có, thật không ngờ”.

Đỉnh điểm khốn khó là những năm hạn kéo dài, khi cả bản phải san sẻ từng gáo nước nhỏ cho nhau. Có gia đình phải đổi ngô lấy nước, có khi bán cả con gà chỉ để mua vài can nước cho cả tuần.

Hành trình tìm nước từ lòng đất

Nỗi khát triền miên ấy chỉ thật sự đổi thay khi dự án “Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước” do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia triển khai.

Cán bộ, kỹ sư của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia kiểm tra lỗ khoan tại Dự án 'Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước'. Ảnh: Hoàng Hoan.

Cán bộ, kỹ sư của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia kiểm tra lỗ khoan tại Dự án "Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước". Ảnh: Hoàng Hoan.

Từ năm 2016 – 2020 (giai đoạn I), dự án đã điều tra tại 197 vùng núi cao thuộc 37 tỉnh, phát hiện trữ lượng nước ngầm khoảng 117.000 m³/ngày, đủ cho hơn 1,4 triệu người dân với định mức 80 lít/người/ngày.

Không chỉ dừng lại ở đó, giai đoạn II (2020 - 2023) tiếp tục mở rộng với quy mô 325 vùng tại 41 tỉnh, trải dài từ miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ cho đến Tây Nguyên và cả các vùng đảo xa.

Ông Triệu Đức Huy, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm, chia sẻ: “Có những mũi khoan phải xuống hàng trăm mét mới bắt gặp mạch nước. Kỹ sư phải băng rừng, vượt núi, ăn ngủ trong lán tạm nhiều tuần liền. Nhưng khi thấy dòng nước trong mát bật lên, tất cả mệt mỏi đều tan biến. Đó là lúc chúng tôi cảm nhận rõ trách nhiệm xã hội của mình, mang sự sống đến cho đồng bào”.

Đặc biệt, Dự án đã góp phần quan trọng vào Chương trình Mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn cũng như Chương trình xây dựng nông thôn mới. Mục tiêu đến năm 2025, đa số người dân nông thôn, đặc biệt ở vùng khó khăn được tiếp cận nguồn nước sạch đạt chuẩn đang dần trở thành hiện thực.

Vỡ òa trong niềm vui có nước sạch

Từ ngày dòng nước mát lành chảy về bản, cuộc sống nơi cao nguyên đá đổi thay từng ngày. Những đứa trẻ vốn quen với cảnh lấm lem, đầu tóc khô cứng vì thiếu nước tắm gội nay đã được rửa mặt sạch sẽ mỗi sáng, áo quần gọn gàng đến lớp. Các em không còn phải nghỉ học theo mẹ đi gùi nước, có thêm thời gian vui chơi, học bài như bao bạn nhỏ miền xuôi.

Niềm vui, hạnh phúc của người dân vùng sâu, vùng xa nay đã có cơ hội chạm tay vào nguồn nước mát lành ngay tại bản làng của mình. Ảnh: Hoàng Hoan.

Niềm vui, hạnh phúc của người dân vùng sâu, vùng xa nay đã có cơ hội chạm tay vào nguồn nước mát lành ngay tại bản làng của mình. Ảnh: Hoàng Hoan.

Với phụ nữ, niềm vui càng lớn lao hơn. Trước kia, gần như cả ngày chỉ quẩn quanh chuyện lấy nước, nay chị em có thêm thời gian trồng rau xanh trong vườn, nuôi thêm con gà, con lợn, rồi tham gia sinh hoạt cộng đồng, đi họp thôn bản. “Giờ đây, tôi không còn phải thức khuya dậy sớm đi gùi nước nữa. Con gái tôi được đến trường đều đặn, rảnh rỗi còn đọc sách, chứ không phải bỏ học như tôi trước kia. Thật sự như mơ”, chị Vàng Thị Mỷ nói, ánh mắt rạng rỡ như chưa bao giờ được cười nhiều đến thế.

Từ ngày dòng nước mát lành chảy về bản, cuộc sống nơi cao nguyên đá đổi thay từng ngày. Ảnh: Minh Hoàng.

Từ ngày dòng nước mát lành chảy về bản, cuộc sống nơi cao nguyên đá đổi thay từng ngày. Ảnh: Minh Hoàng.

Không chỉ đời sống sinh hoạt, sản xuất cũng khởi sắc thấy rõ. Những thửa ruộng ngô, ruộng lúa vốn èo uột, ngả vàng vì khát nay được tưới đều, cây cối xanh tươi, hứa hẹn mùa thu hoạch no đủ. Đàn trâu bò, dê ngựa có nước uống đầy đủ, ít bệnh tật, sinh sản nhiều hơn, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình. Người dân trong bản còn góp công đào thêm mương nhỏ dẫn nước về tận nương rẫy, mở ra hy vọng thoát nghèo nhờ chính mảnh đất của mình.

Tiếng trẻ cười vang bên bể nước, tiếng nước chảy róc rách trong những can nhựa sạch sẽ, tiếng gọi nhau í ới ra sân lấy nước, tất cả đã trở thành âm thanh mới, âm thanh của sự đủ đầy. Với bà con cao nguyên đá, có nước sạch không chỉ là có thêm bữa cơm ngon, tấm áo lành, mà còn là có thêm niềm tin và nghị lực để bám trụ, dựng xây quê hương trên vùng đất khắc nghiệt này.

Bài toán dài hạn và khát vọng bền vững

Dẫu vậy, theo các chuyên gia, để “mạch sống” ấy bền vững cần sự đồng hành của chính quyền và người dân trong quản lý, vận hành. Nhiều công trình ở miền núi đang có nguy cơ xuống cấp nhanh nếu thiếu nguồn kinh phí duy tu.

“Điều tra và tìm ra nguồn nước mới chỉ là nửa chặng đường. Để công trình bền vững, cần cộng đồng tham gia bảo vệ và chính quyền phân bổ ngân sách duy trì”, ông Triệu Đức Huy nhấn mạnh.

Đời sống người dân đổi thay từ khi nước sạch về bản. Ảnh: Minh Hoàng.

Đời sống người dân đổi thay từ khi nước sạch về bản. Ảnh: Minh Hoàng.

Trên nền đá khô cằn, dưới nắng gió rát bỏng, những vòi nước mới chảy róc rách chính là minh chứng cho nỗ lực bền bỉ của cả một ngành, là lời hứa về một tương lai công bằng, bền vững - nơi không ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình tiếp cận nguồn nước sạch.

Với người miền xuôi, nước sạch là điều hiển nhiên. Nhưng với bà con cao nguyên đá, đó là giấc mơ giản dị, là hạnh phúc lớn lao. Và giấc mơ ấy hôm nay đã thành hiện thực, nhờ những bước chân kiên cường của những con người miệt mài mở đường tìm “mạch sống” từ lòng đất.

Xem thêm
Nghệ An tìm nơi ‘an cư’ cho người dân vùng lũ biên giới

Ngay sau bão số 10, lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã trực tiếp đến vùng biên giới Mường Típ, Na Loi, Keng Đu khảo sát, tìm vị trí tái định cư cho người dân.

Cặp vợ chồng dại và đứa con bị bại não

Căn nhà anh Trịnh Phùng Hùng ở thôn 8, xã Mỹ Đức ám mùi thuốc và nỗi nhọc nhằn của cặp vợ chồng dại chăm con bị bại não.