Ông Hoàng Anh Dũng, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Thương mại Intraco (Intraco), cho biết, Intraco hiện là một trong số ít đơn vị tại Việt Nam đầu tư trực tiếp vào các dự án giảm phát thải các bon và tạo tín chỉ các bon.
Hiện, Intraco đang triển khai hơn 15 chương trình, dự án quy mô lớn tại Việt Nam, bao gồm các dự án cung cấp nước sạch, nước uống an toàn nhằm thay thế việc sử dụng nước phải đun nấu bằng năng lượng; các chương trình bếp tiết kiệm năng lượng cho hộ dân; cũng như các chương trình tiết kiệm điện, thay thế bóng đèn sợi đốt bằng đèn LED hiệu suất cao.
Bên cạnh đó, Intraco còn đầu tư vào các dự án loại bỏ các-bon như sản xuất than sinh học (biochar) và các dự án cải tạo đất nhằm giảm sử dụng phân bón hóa học. Những chương trình này bước đầu đã mang lại hiệu quả nhất định và thu hút sự quan tâm, hợp tác của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới trong quá trình triển khai.
Ông Hoàng Anh Dũng, Tổng Giám đốc Intraco cho biết, thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã triển khai thành công các mô hình dự án cộng đồng và thực hiện chuyển đổi xanh một cách nghiêm túc. Ảnh: Duy Học.
Trong thời gian tới, doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu và phát triển các dự án khí sinh học, sử dụng nguồn khí này làm nhiên liệu cho các nhà máy công nghiệp.
Theo ông Dũng, đối với các nhà máy hướng tới mục tiêu Net Zero, việc thay thế hoàn toàn nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt vào ban đêm, vẫn là bài toán khó.
Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn như: Vinamilk, TH hay Petrolimex đã sử dụng tỷ lệ năng lượng tái tạo cao vào ban ngày, song thách thức lớn vẫn nằm ở việc bảo đảm nguồn năng lượng xanh ổn định vào ban đêm. Vì vậy, Intraco đang nghiên cứu các giải pháp nhằm cung cấp năng lượng xanh cho doanh nghiệp trong những khung thời gian khó khăn này; đồng thời phối hợp cùng các đối tác xây dựng các chương trình xanh, từng bước loại bỏ nhiên liệu hóa thạch, góp phần cùng cả nước hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Tuy nhiên, ông Dũng cho rằng, hiện nay những chương trình như vậy chủ yếu mới chỉ phù hợp với các doanh nghiệp lớn và nguồn ngân sách dành cho giai đoạn thí điểm vẫn còn hạn chế.
Cũng theo ông Dũng, các dự án của Intraco hiện chủ yếu đang ở quy mô thử nghiệm. Việc phát triển các dự án thu hồi CO₂ trực tiếp từ khí quyển hoặc chôn lấp các-bon tại Việt Nam đòi hỏi chi phí rất cao, trở thành rào cản lớn khi đưa các dự án này ra thị trường. Mặc dù công nghệ cơ bản đã có sẵn, nhưng chi phí đầu tư còn quá lớn, gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai.
Đối với các dự án cộng đồng, doanh nghiệp cũng gặp không ít trở ngại về địa bàn triển khai và công tác quản lý. Bên cạnh đó, quá trình sáp nhập các đơn vị hành chính địa phương khiến phạm vi dự án thay đổi, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. Ông Dũng bày tỏ kỳ vọng, từ cuối năm 2025 sang năm 2026, khi bộ máy quản lý được tinh gọn và vận hành ổn định hơn, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp triển khai các dự án các bon hiệu quả hơn.
Ông Dũng nhấn mạnh, đối với chuyển đổi xanh cũng như việc tham gia thị trường các bon, "doanh nghiệp Việt Nam cần coi đầu tư cho chuyển đổi xanh là một khoản đầu tư dài hạn, chứ không đơn thuần chỉ để xây dựng hình ảnh".
Thực tế hiện nay, một số doanh nghiệp triển khai các chương trình môi trường mang tính hình thức, trong khi chuyển đổi xanh đòi hỏi sự đầu tư nghiêm túc và bền bỉ. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần dành một nguồn ngân sách ổn định cho chuyển đổi xanh, vừa mang tính đầu tư dài hạn, vừa phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Ông Dũng cho rằng, việc đầu tư vào các dự án chuyển đổi xanh trước hết giúp doanh nghiệp giảm phát thải các bon, đồng thời mang lại nhiều lợi ích thiết thực như giảm tiêu thụ nhiên liệu, giảm lượng chất thải và tạo ra giá trị thực sự cho cộng đồng.
Tập đoàn TH đã chủ động triển khai chiến lược trung hòa carbon (THCB) - không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là lợi thế cạnh tranh trong thời kỳ kinh tế xanh. Tập đoàn TH đã chủ động triển khai chiến lược trung hòa carbon (THCB). Ảnh: DH.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã triển khai thành công các mô hình dự án cộng đồng và thực hiện chuyển đổi xanh một cách nghiêm túc. Chẳng hạn, các doanh nghiệp như TH hay Petrolimex đã bố trí ngân sách riêng cho chuyển đổi xanh và có định hướng rõ ràng trong việc tham gia thị trường các-bon.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nước ngoài thuộc nhóm chịu hạn ngạch bắt buộc cũng đã chủ động nghiên cứu, thảo luận để xây dựng ngân sách phù hợp, lựa chọn các dự án đầu tư nhằm giảm phát thải các bon, trước mắt là để tuân thủ các quy định của Việt Nam. Xa hơn, các doanh nghiệp này còn hướng tới việc thương mại hóa tín chỉ các-bon.
Một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có sự chuẩn bị khá bài bản về nguồn lực, vừa đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, vừa đầu tư dài hạn. Các khoản đầu tư này không chỉ phục vụ cho việc bù đắp phát thải của chính doanh nghiệp mà còn có thể tạo ra tín chỉ các bon để tham gia thị trường, mang lại nguồn thu bổ sung bên cạnh các hoạt động kinh doanh chính.
“Đây là tư duy đúng đắn mà doanh nghiệp cần theo đuổi, đồng thời là cách tiếp cận cần thiết để doanh nghiệp đồng hành cùng đất nước trong quá trình thực hiện mục tiêu Net Zero”, ông Dũng nhấn mạnh.

























