| Hotline: 0983.970.780

Để phòng thí nghiệm đủ “dinh dưỡng” giữ mầm khoa học

Thứ Tư 31/12/2025 , 15:28 (GMT+7)

Từ ký ức vài trăm triệu mua nhà đến viện nghiên cứu như “sân ga”, câu chuyện của GS.TS Phạm Xuân Hội phác họa rõ nét trăn trở của người làm khoa học hiện nay.

Khi đam mê ‘va đập’ kinh tế thị trường

Những năm đầu 2000, một nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình đào tạo ở nước ngoài, nếu sống tiết kiệm, có thể mang về vài trăm triệu đồng. Khi ấy, số tiền đó đủ để mua một căn nhà nhỏ, ổn định chỗ ở và bắt đầu sự nghiệp mà không quá nhiều xao động. GS.TS Phạm Xuân Hội nhớ như in con số ấy, không phải để so bì với hiện tại, mà bởi đó là điểm tựa quan trọng để ông trụ vững và gắn bó lâu dài với khoa học.

“Tôi về nước, mua được nhà. Có chỗ ở rồi thì đầu óc nhẹ đi rất nhiều. Lúc ấy, tôi biết mình không phải tính toán từng bước ngắn hạn”, ông kể.

GS.TS Phạm Xuân Hội, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp. Ảnh: Linh Linh.

GS.TS Phạm Xuân Hội, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp. Ảnh: Linh Linh.

Căn nhà khi đó không chỉ là nơi che mưa nắng. Nó là khoảng đệm tâm lý để một người vừa rời môi trường nghiên cứu ổn định ở nước ngoài không rơi vào trạng thái hụt hẫng. Khi cơm áo gạo tiền không phải gánh nặng, phòng thí nghiệm luôn là trung tâm của mọi suy nghĩ. Ông bước qua cánh cổng viện nghiên cứu trong tâm thế đó.

Ngày ấy kinh tế thị trường đã xuất hiện, nhưng chưa tạo áp lực trực diện lên đời sống cá nhân. Thu nhập thấp là chuyện chung của nhiều ngành, không riêng gì khoa học. Sự so sánh giữa các nghề nghiệp chưa trở thành sức ép thường trực. Việc kiên nhẫn theo đuổi những hướng nghiên cứu dài hơi, như công nghệ gene, vì thế, tương đối khả thi.

Nhưng mọi thứ thay đổi khá nhanh sau đó. Khi kinh tế thị trường định hình rõ rệt hơn, sự phân hóa bắt đầu chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội. Những ngành nghề có thu nhập cao, tỷ suất lợi nhuận lớn, lộ trình nghề nghiệp rõ ràng… nương theo sự tăng tốc của nền kinh tế nhanh chóng hút nguồn nhân lực. Khoa học, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản và công nghệ nền tảng, dần bị đẩy vào thế khó. “Tôi không nghĩ đam mê khoa học của người trẻ ít đi. Vấn đề là đam mê ấy phải va chạm với quá nhiều chi phí rất đời: nhà ở, sinh hoạt, tương lai gia đình. Khi chưa có điểm tựa tối thiểu, thật khó để các nhà khoa học trẻ kiên tâm đi đường dài”, ông nói.

Sự thay đổi ấy hiển hiện trong chính hệ thống các viện nghiên cứu đầu ngành. Có những giai đoạn, GS Hội thấy đây giống như những “sân ga”. Người trẻ đến, làm việc vài năm, tích lũy kinh nghiệm, rồi rời đi. Không phải vì họ hết yêu khoa học, mà vì khoa học không đủ sức giữ họ lại trước áp lực đời sống. Trong khi đó, công việc nghiên cứu tại Viện Di truyền Nông nghiệp ngày càng đi vào chiều sâu. Khi được giao chủ trì các nhiệm vụ cấp Nhà nước và hợp tác quốc tế về genomics, chọn giống ứng dụng chỉ thị phân tử, ông hiểu đây là những hướng nghiên cứu đòi hỏi đầu tư dài hạn, không thể nóng vội, bởi yêu cầu đầu ra là các bộ giống cây trồng vừa đáp ứng yêu cầu năng suất, vừa phải thích ứng với biến đổi khí hậu.

Giống lúa Khang Dân do Viện Di truyền Nông nghiệp nghiên cứu tại vụ mùa 2007. Ảnh: TL.

Giống lúa Khang Dân do Viện Di truyền Nông nghiệp nghiên cứu tại vụ mùa 2007. Ảnh: TL.

Giống lúa ĐS1 là ví dụ. Khi được lưu hành và nhanh chóng mở rộng diện tích ở ĐBSCL, nguyên Viện trưởng quan tâm nhiều hơn đến phản hồi từ người trồng hơn là các bảng thống kê. Việc năng suất tăng, giá gạo cao hơn, lợi nhuận quay trở lại với nông dân mới là thước đo cuối cùng của nghiên cứu. Tương tự, các giống DT80, DT82 hay SHPT3 không chỉ là kết quả của công nghệ chỉ thị phân tử hay lai tạo, mà là lời giải cụ thể cho các vấn đề mặn, ngập, bệnh hại đang ngày càng rõ nét.

Nhìn lại chặng đường gần 4 thập kỷ, hàng trăm bài báo, nhiều nhiệm vụ nghiên cứu lớn, thảng hoặc ông tự hỏi: Điều gì đã giúp mình có thể đi hết quãng đường đó? Câu trả lời có lẽ nằm ngay từ những chuyến công tác đầu tiên. Năm 1988, miền Trung mất mùa ngô. Ông được tham gia nhóm nghiên cứu của GS. TS Phan Phải, tập trung vào ứng dụng công nghệ đột biến trong chọn tạo giống ngô. Đó là giai đoạn khoa học nông nghiệp Việt Nam còn nhiều thiếu thốn, nhưng cũng đầy khát vọng cải thiện năng suất bằng con đường khoa học. Giống ngô DT6 ra đời trong bối cảnh ấy, rồi được đưa vào sản xuất, năng suất đạt 6-7 tấn/ha, cao hơn hẳn các giống phổ biến lúc đó.

Cảm giác khi thấy công trình của mình bước ra khỏi phòng thí nghiệm, giải quyết trực tiếp bài toán lương thực của người dân càng tuyệt vời hơn khi đi đến đâu, ông cũng được nhận ra. “Người dân mời chúng tôi ăn cơm bằng được. Có món gì ngon là họ mang ra thết đãi”, ông nhớ lại và chiêm nghiệm: “Có lẽ tôi may mắn hơn các bạn trẻ bây giờ. Ngày tôi về nước, vài trăm triệu đồng đủ để mua nhà. Giờ thì số tiền ấy chỉ đủ cầm cự một thời gian. Khi không có điểm tựa, đam mê dễ bị đẩy vào thế đối đầu với kinh tế thị trường”.

Khi một nhà khoa học trẻ trở về nước hôm nay, khoảng trống giữa đam mê và đời sống không những nằm ở ý chí cá nhân, mà còn là cách xã hội đặt khoa học vào đâu trong trật tự của nền kinh tế thị trường. Nếu không được lấp đầy, đó tiếp tục là nơi những va đập âm thầm diễn ra.

GS.TS Phạm Xuân Hội tại phòng nghiên cứu của Viện. Ảnh: NVCC.

GS.TS Phạm Xuân Hội tại phòng nghiên cứu của Viện. Ảnh: NVCC.

Trăn trở giữ chân người tài cho khoa học

Nếu nhiều viện nghiên cứu từng giống như “sân ga”, thì với GS.TS Phạm Xuân Hội, câu hỏi theo ông suốt nhiều năm không phải là vì sao người trẻ rời đi, mà là làm thế nào để có thêm người ở lại. Ở lại đủ lâu để làm khoa học một cách nghiêm túc, đủ bền bỉ để theo đuổi những hướng nghiên cứu mà kết quả không đến sau một đề tài, thậm chí một nhiệm kỳ.

Ông từng làm việc tại Trung tâm Kỹ thuật gen và Công nghệ Sinh học Quốc tế (New Delhi, Ấn Độ), rồi tiếp tục học sau tiến sĩ ở Thụy Điển và Nhật Bản, trong những phòng thí nghiệm nơi mọi điều kiện cơ bản đã được chuẩn bị sẵn. Trang thiết bị, cơ chế vận hành, thu nhập đủ để nhà khoa học không phải phân tán năng lượng cho những lo toan ngoài chuyên môn. Trải nghiệm đó khiến ông nhìn rất rõ vai trò của thứ mà ông gọi là “hệ sinh thái khoa học” - nơi năng lực cá nhân không thể tách rời môi trường xung quanh.

“Một nhà khoa học giỏi không thể đứng một mình. Cần đồng nghiệp giỏi, cần nhóm nghiên cứu mạnh, cần cơ chế ổn định để người ta yên tâm đi sâu. Khoa học không phải cuộc chạy nước rút, mà là đường dài”, ông trải lòng và thừa nhận kể từ lúc gắn bó với Viện Di truyền Nông nghiệp, đã dành nhiều thời gian cho việc tìm kiếm và đào tạo lớp kế cận. Đó thường là những sinh viên xuất sắc, nền tảng tốt và đặc biệt ưu tiên những người trẻ, vì “khoa học luôn cần thời gian đủ dài”.

Nhưng chính từ đây, những trăn trở bắt đầu hiện hình rõ ràng hơn. Không ít người, từ khi là sinh viên, bước vào phòng thí nghiệm bằng sự háo hức rất thật. Họ làm việc chăm chỉ, say mê, sẵn sàng ở lại muộn để hoàn thành thí nghiệm. Rồi sau vài năm, câu hỏi về tương lai xuất hiện. Họ không hỏi về học thuật, mà hỏi về đời sống.

“Họ hỏi tôi rằng có nên tiếp tục không, rằng nếu theo con đường này thì 10 năm nữa họ sẽ ở đâu, có sống được bằng nghề không. Tôi hiểu, đó không phải là sự dao động nhất thời, mà là điểm giao nhau giữa đam mê và thực tế”, ông nói tiếp.

Trong vai trò quản lý, GS Hội nhiều lần chứng kiến những quyết định rẽ hướng. Có người chuyển sang lĩnh vực quản lý nhà nước, nơi thu nhập và lộ trình nghề nghiệp rõ ràng hơn. Có người ra nước ngoài và chọn ở lại định cư. Có người thậm chí rời hẳn phòng thí nghiệm, mang theo kiến thức khoa học như một lợi thế, nhưng không còn đặt chân lại phòng nghiên cứu nữa. Mỗi lần như vậy, ông đều tiếc vì không thể giữ những tài năng vừa độ chin bằng lời hứa.

Giống cam không hạt Valencia 2 được nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia của Viện. Ảnh: TL.

Giống cam không hạt Valencia 2 được nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia của Viện. Ảnh: TL.

Khoa học không thể yêu cầu người trẻ hy sinh đời sống cá nhân trong thời gian quá dài. Bởi vậy, giữ chân người tài cho khoa học không thể chỉ dựa vào tinh thần hay lý tưởng. Phải xác định, đây là một nghề đặc thù, đòi hỏi đầu tư dài hạn, trong khi đời sống cá nhân không thể chờ đợi vô thời hạn. Một người trẻ có thể chấp nhận khó khăn vài năm, nhưng rất khó chấp nhận sự bấp bênh kéo dài. Trăn trở ấy càng rõ khi nhìn vào thực tế, chi phí sinh hoạt, đặc biệt là nhà ở, đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với thu nhập của cán bộ nghiên cứu. Ngày trước, tích lũy tài chính có thể trở thành điểm tựa ban đầu. Bây giờ, điểm tựa ấy gần như biến mất. Khi chưa có những điều kiện tối thiểu, những kế hoạch nghiên cứu 10, 20 năm có lẽ chỉ xuất hiện trên giấy.

Một rào cản “cao” không kém khác, là sự thiếu ổn định của môi trường nghiên cứu. Thủ tục hành chính, cơ chế tài chính, thanh quyết toán… tiêu tốn nhiều thời gian và năng lượng của nhà khoa học. Nhiều lúc, người làm khoa học phải dành quá nhiều công sức cho những việc không phải là khoa học. Khi năng lượng bị phân tán như vậy, rất khó để duy trì chiều sâu nghiên cứu.

Không nhìn thực trạng này bằng sự bi quan, nguyên Viện trưởng coi đó là “bàn tay điều tiết” của kinh tế thị trường, đồng thời kiên định duy trì những nhóm nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt trong lĩnh vực chỉnh sửa gen. Với ông, đây là hướng đi có ý nghĩa đặc biệt đối với nông nghiệp Việt Nam. Và bởi công nghệ này cho phép cải tạo trực tiếp những tính trạng của cây trồng, tương tự công nghệ chuyển gen nhưng “an toàn” hơn vì không đưa bất kỳ gen lạ nào vào cây trồng.

Đánh đổi hàng nghìn ngày miệt mài trong phòng lab là hệ thống CRISPR/Cas9 do GS Hội cùng cộng sự hoàn thiện, cho phép chỉnh sửa đồng thời nhiều gen trên cả cây một lá mầm và hai lá mầm. Các dòng lúa Bắc Thơm 7 và TBR225 kháng bệnh bạc lá đã được tạo ra. Về bản chất, đó là các đột biến chính xác, không khác gì các dạng đột biến tự nhiên hay nhân tạo đã tồn tại trong sản xuất. “Nhưng khi chưa có khung pháp lý phù hợp, tất cả vẫn phải dừng trong phòng thí nghiệm”, ông phân trần và bỏ ngỏ viễn cảnh một ngày nào đó, rào cản được tháo gỡ. Khi ấy, những giống lúa mới có thể mang lại lợi ích kinh tế hàng tỷ đồng cho nông dân.

Cùng với những vướng mắc về công nghệ, GS Hội nhìn thấy một vấn đề khác đáng lo ngại hơn: sự thiếu hụt thế hệ kế cận. Nhiều năm khoa học không được đầu tư tương xứng đã khiến đội ngũ nhà khoa học đầu ngành mai một dần. Lực lượng nghiên cứu viên trẻ thì khó tuyển, hoặc không ở lại đủ lâu để trưởng thành. Có những giáo sư nước ngoài từng liên hệ với ông, đề nghị giới thiệu nghiên cứu sinh sang học tập với học bổng đầy đủ. Nhưng không phải lúc nào ông cũng tìm được người đủ năng lực và đủ sẵn sàng để tiến cử. Khoảng trống về nhân lực khoa học không chỉ là câu chuyện của hiện tại, mà là vấn đề của nhiều năm nữa.

Cuối ngày làm việc, phòng thí nghiệm dần yên tĩnh. Một vài nhóm nghiên cứu trẻ vẫn ngồi lại, chỉnh sửa những bảng số liệu cuối cùng. Với GS.TS Phạm Xuân Hội, đó là hình ảnh quen thuộc, vừa đáng quý, vừa mong manh. Khi chưa có đủ “dinh dưỡng” cho khoa học, những mầm ấy có thể rời đi bất cứ lúc nào, không vì thiếu đam mê, mà bởi không thể sống mãi trong trạng thái chờ đợi.

Xem thêm
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Tổng kết ngành Nông nghiệp và Môi trường

Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2025, triển khai nhiệm vụ năm 2026; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chỉ đạo hội nghị.

Du lịch nông thôn mở thị trường mới cho nông nghiệp đa giá trị Quảng Ninh

Du lịch nông thôn đang trở thành hướng đi chiến lược, góp phần tái cơ cấu nông nghiệp Quảng Ninh theo chiều sâu, mở rộng không gian tăng trưởng bền vững giai đoạn tới.

Để phòng thí nghiệm đủ “dinh dưỡng” giữ mầm khoa học
Thời sự 3 phút trước