
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong.
Nguyễn Thành Phong được biết đến là người đa tài. Ông vốn tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội, thế nhưng số phận lại đưa ông đến với văn chương từ rất sớm. Cả đời hoạt động văn chương chữ nghĩa, ông không chỉ làm thơ, còn viết văn, biên kịch điện ảnh và làm báo. Ở lĩnh vực nào, ông cũng là một con người tài hoa và để lại dấu ấn khá đậm. Dù trải qua cả lĩnh vực sáng tác và quản lý; cả văn xuôi, báo chí và kịch bản nhưng thơ vẫn là nơi hiện hình đầy đủ nhất hồn vía Nguyễn Thành Phong.
Ông nổi tiếng về thơ khi còn là sinh viên. Không khí thơ sinh viên những năm 80 của thế kỷ trước có thể là mơ ước cho những người yêu thơ trẻ. Nguyễn Thành Phong trưởng thành trong phong trào thơ đó. Một gương mặt thơ tài hoa, đa tình, trong sáng, đẹp đẽ. Một tác giả trẻ giàu nội lực, chân thành, tài tử và nhiều hứa hẹn.
Những tập thơ của ông ra đời đã không phụ lòng người yêu thơ. Hơn thế, những phẩm chất tốt đẹp của thơ ông thuở đầu đời ngày càng được nâng cao, sâu sắc và đậm nét hơn sau mỗi thi phẩm. Và, qua đó khắc họa nên chân dung thơ Nguyễn Thành Phong.
Thế nhưng, đến "Đêm ngồi ngã ba sông" (Nxb Hội nhà văn, 2021) đã xuất hiện những điều khác biệt. Một chiều cạnh thơ Nguyễn Thành Phong rất khác. Xuyên suốt tập thơ là sự dấn thân quyết liệt, sự trải nghiệm nỗi đời và tinh thần vị tha buông bỏ.
Nói xuyên suốt là vì ở tập thơ này có rất nhiều chủ đề. Thực ra, cũng giống như cách in thơ của đa số các nhà thơ hiện nay, rằng tác giả sáng tác thơ hoàn toàn ngẫu hứng và đến thời điểm nào đó khi đã có một lượng bài kha khá thì tập hợp thành một tập thơ. Mỗi bài thơ một ý tứ, một chủ đề, một tâm trạng được xếp nằm chung trong một tập thơ. Vì vậy, các tập thơ ra đời thường rất tản mát về nội dung và đa hợp về hình thức.
Ở tập thơ này của mình, Nguyễn Thành Phong đã rất công phu. Với 63 bài thơ, ông đã nhóm thành 9 chủ đề mang nội dung, tâm trạng và chủ điểm khác nhau. Và, xuyên qua các chủ đề ấy, tâm thế dấn thân và buông bỏ đã hiện ra một cách rõ nét.

Thật vậy, ở bài "Câu", tâm trạng lưỡng phân ấy xuất hiện: ''Ta từng câu tước câu quan/ Mồi câu chỉ mắc thênh thang lòng mình/ Tước quan câu được rồi kinh/ Rồi buông bỏ, lại lòng mình thênh thang".
Ấy là ông đã dấn thân vào chốn quan trường, cho dù như ông thú nhận, thông qua hình tượng nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong bài thơ "Buổi sáng Hồ Tây": ''Tôi thấy bóng mình trong bóng quan văn''. Chỉ là một chức quan văn kha khá. Nhưng ''câu'' mãi mới được chức quan ấy, thế nhưng có được tước quan ấy ''rồi kinh'' sợ. Rồi khi ''buông bỏ'' được thì thấy lòng mình ''thênh thang'', thấy mình thật là mình.
''Thênh thang'' là bởi ông đã thoát được chốn quan trường không phải ai cũng kham được. ''Đồng nhân nghĩa bạc mặt người đi mót/ Lội phía nào cũng quẩn gió quạnh hiu/ Bước chân gần bước chân xa tít tắp/ Bải hoải chiều bằn bặt tiếng tin yêu/ Kẻ tài trí bất ngờ ngã ngựa/ Người cương trường lịm mỏi tim đau/ Biển mới lặng mà cồn lên sóng đỏ/ Sông vừa xanh lại vơi nước đổi màu'' (Chuyển mùa...). Kẻ ngã ngựa ấy chính là ông. Bởi vì nhiều thứ, hơn thế, ông còn bị đẩy vào vòng lao lý: ''Ngạc nhiên chưa cuối đời ông bị bắt/ Rồi bất ngờ cũng chốn ấy tôi nằm chơi/ Ta đi qua trại chỉ là trong chớp mắt/ Mà hiểu thêm bao dằng dặc nỗi đời" (Người văn).
Ông đã đối diện với một thực tế cay đắng: ''Một mảnh chăn vừa gối, trải sàn và đắp/ Ta nằm co cắp góc nền xi măng/ Hiện thực đây giờ đã thật phòng giam/ Nắng vừa tắt sau rầm rầm cửa sắt” (Hạt cát).
Đối với nhà thơ, bị vào hoàn cảnh ấy là một trải nghiệm vừa đắng cay vừa gợi ra những suy tư bừng ngộ. Chả thế mà chỉ ở đó một thời gian ngắn, ông đã viết một seri bài: Nhớ phố, Hạt cát, Hỏi chuyện thâu đêm, Con mèo nhỏ, Nhìn chú đây này, Vậy thì hãy sống, Chuyện dài, Đêm nằm nghe mưa, Người ném đá... đầy tâm tư trắc ẩn và ''dằng dặc nỗi đời''.
Dấn thân cũng là lúc ông vào với đời sống nhân dân, số phận đất nước và nhận ra muôn mặt cuộc đời. Càng dấn thân, trong lòng nhà thơ càng trĩu nặng nỗi niềm. ''Đi phía nào cũng gặp điều ngang trái/ Những phận đời thập thững long đong/ Kẻ tha hóa nối theo nhau vào trại/ Đủ nhẹ cười thôi, chứ đâu đã yên lòng/ Mấy thập niên không còn giặc giã/ Người với người đã tạm đủ cơm ăn/ Sao cứ mãi lương tri càng trĩu nặng/ Không cất lời thì ta hóa đang câm?” (Trĩu nặng đầu năm).
Ông không phải là người câm, ông đã vào cuộc dũng cảm lên tiếng chỉ ra chân tướng một thế giới hư hỏng, lưu manh: ''Đã từng dấn thân và khát vọng/ Từng nguyện thề đầy tớ nhân dân/ Tự diễn biến rồi tự chuyển hóa/ Gặp thời thành những dị quan/ Sao cái thời có thật lắm kiểu quan/ Quan bằng giả bằng mua quan chép bài quay cóp.../ Quan cơ hội quan lưu manh/ Quan bám mép ghế, quan lật mặt bàn/ Quan găm hàng tự có/ Đầu tư dần từng nấc để lên quan... /Nước văn hiến mà quan vô văn hóa'' và, ''Trước đám đông quan rao giảng như thần/ Nhân nghĩa, nhân tình, nặng nợ, biết ơn/ Trong phòng kín lại gằm ghè chửi tục/ Quan đéo mẹ dân như kẻ đầu đường.../ Xưa đánh giặc tìm đâu cũng thấy dân/ Giờ cai trị, quan nhìn đâu cũng địch/ Địch ở trên trời, địch giữa hư không/ Địch cả ông dân từng cõng quan đuổi giặc.../ Đường không hẳn sai mà lắm kẻ đi sai/ Ghế không xấu chỉ người ngồi ghế xấu/ Sách kinh điển dù đã nhiều lạc hậu/ Không dạy tín đồ đểu giả gian manh'' (Dị quan). Thơ ấy "dị quan" nghe chối tai lắm, ức lắm nhưng đó lại là tiếng nói chân thực, ''trắng phớ'' của người trong cuộc.
Đọc các câu thơ này, ai cũng kinh sợ và buồn lòng về một sự thối nát, hư hỏng. Sự cảnh tỉnh của nhà thơ về sự ''lưu manh'' và ''vô văn hóa'' của một nhóm quan chức đang cầm quyền thoái hóa, biến chất, hoàn toàn có thể làm hỏng con đường phát triển thịnh vượng của cả dân tộc. Sự dấn thân dũng cảm này cho ta thấy nhà thơ là một người ưu thời mẫn thế, một nhà thơ có trách nhiệm trước cuộc sống của nhân dân, trước số phận của dân tộc.
Nguyễn Thành Phong là một người từng trải, không phải vì ông đã trải qua môi trường sống trí thức, quân đội, công an, và báo giới mà ông là người sống sâu, sống kỹ và luôn trăn trở về nỗi đời. Đúng như ông nhận ra, ''Đời ta hóa cũng nhiều cay đắng/ Thuở sinh viên hăm hở cửa vòm xanh/ Rồi lặn lội qua trường văn trận bút/ Nghe nhân tình réo gọi thở than'' (Người văn).
Vì vậy thơ ông dù có nói về cái xấu, cái ác, sự đểu giả, sự tăm tối của cuộc đời nhưng vẫn ngời sáng niềm tin vào con người, vào sự nhân nghĩa của cuộc đời. Chính thế mà thơ ông không bế tắc, thất vọng mà luôn lạc quan, hy vọng. ''Nhân quần từ độ khởi đi/ Thiên lương vẫn vững, tham si vẫn nhiều/ Nhón chân cúi xuống mà yêu/ Nhân tình sẽ ấm mấy chiều nhân gian...” (Đầu năm ra ngõ), và, ''Đêm ta ngồi giữa ngã ba dòng sông sâu/ Nghe nước thở mấy ngàn năm vẫn thở/ Nghe nước kể chuyện những đời người/ Cay đắng và vinh quang/ Kiếp sống nhọc nhằn lòng cứ thắm tươi'' (Đêm ngồi ngã ba sông)...
Nguyễn Thành Phong là người may mắn, ông có một quê hương tuyệt vời. Quê hương, bầu bạn tuổi thơ đó là nơi nâng đỡ, chốn trở về của ông qua phong ba đời người. Thật vậy, "Ta gieo hạt nhân tâm mà gặp mùa bất trắc/ Đưa tay đón nhân tình lại gặp mặt tà tâm/ Chiều thong thả về ngồi bên đất ẩm/ Nghe gió động rừng cờ xoa xuyến cỏ cây yêu'' (Hoa vườn nhà). Và, ''Đã đi suốt những chặng đường tít tắp/ Những khúc bằng, khúc ngoặt, khúc ngang/ Nghe chuyện lạ bốn phương không lạ nữa/ Về ngồi dưới hiên quê thư thả ngắm làng'' (Dưới mái hiên quê).
Rõ ràng, từ tâm thế hăm hở nhập cuộc, dấn thân quyết liệt, ông đã cảm nhận được thành bại ở đời và thanh thản buông bỏ để trở lại với lòng mình, với những gì tốt đẹp và tử tế của cuộc đời. Dĩ nhiên, bí mật sự buông bỏ ấy đã được ông hé lộ ''Tiểu nhân lộng hí quan trường/ Chính nhân lặng lẽ quay đường tiêu dao'' (Dưới núi Thiên Thai). Sự hé lộ ấy làm ta day dứt, thật buồn.
Các tập thơ của Nguyễn Thành Phong, kể cả "Đêm ngồi ngã ba sông", ta thấy, về nghệ thuật thơ, ông không dày công tìm con đường riêng của thơ mình. Ông không chọn mạo hiểm mà chọn an toàn, không chọn khác biệt mà chọn thân thuộc. Đó chính là cách chọn những hình thức thơ phù hợp nhất với ''tạng'' mình để thể hiện tối ưu cảm xúc và suy tư của mình.
Đã dấn thân quyết liệt, đã phơi bày trắng phớ, nhưng rồi lại buông bỏ, để "Đêm ngồi ngã ba sông" vẫn day dứt: "Ta ngửa mặt nhìn trời cao/ Ta sống vậy đã là như sống/ Hay phải sống làm sao?''…