Ngày 5/12, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong kỷ nguyên mới” tại Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (xã Phú Hộ, tỉnh Phú Thọ).
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, khoa học công nghệ có vai trò cốt lõi trong việc đảm bảo an ninh lương thực, gia tăng độ che phủ rừng, phát triển thủy sản và hỗ trợ phòng chống thiên tai. Ảnh: Hồng Đức.
Hội thảo đã quy tụ các nhà khoa học, doanh nghiệp và đại diện 14 tỉnh trong khu vực. Sự kiện được xem là diễn đàn chiến lược nhằm nhận diện những điểm nghẽn, đồng thời đề xuất giải pháp đột phá để đưa nông nghiệp miền núi phía Bắc bước vào giai đoạn phát triển mới, dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và chuyển đổi số.
Thời điểm vàng của ngành trồng trọt
Trong bối cảnh nông nghiệp cả nước bước vào giai đoạn tái cấu trúc mới, vùng Trung du và miền núi phía Bắc đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ để khai thác hiệu quả tiềm năng. Trong đó, động lực quan trọng nhất hiện nay chính là khoa học công nghệ, đặc biệt khi biến đổi khí hậu và yêu cầu thị trường đặt ra những tiêu chuẩn chưa từng có.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến ghi nhận những thành tựu nổi bật của Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc trong 20 năm qua, từ việc tạo ra 36 giống cây trồng mới, 14 tiến bộ kỹ thuật cấp Bộ đến hơn 50 quy trình công nghệ đã được chuyển giao vào thực tiễn. Những kết quả này, theo ông, là nền tảng quan trọng để giải quyết các yêu cầu phát triển sản xuất trong bối cảnh mới.
Thứ trưởng đánh giá dù sở hữu lợi thế lớn, nông nghiệp miền núi phía Bắc vẫn còn manh mún, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng tự nhiên và nguồn lực con người. Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, những chính sách vừa được ban hành như Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá khoa học công nghệ và Kết luận 219-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW đang mở ra cơ hội lớn để thúc đẩy hợp tác đa ngành, tái cơ cấu sản xuất theo hướng phù hợp thị trường và phát triển hệ sinh thái nông nghiệp đa giá trị.
“Đây là thời điểm vàng để ngành trồng trọt của vùng bứt phá, đặc biệt khi liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và các viện trường được đẩy mạnh”, Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh và đề nghị tập trung ưu tiên nghiên cứu liên quan đến biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và thương mại hóa sản phẩm; đồng thời rà soát các tiêu chuẩn, quy chuẩn để đáp ứng yêu cầu mới của thị trường.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Đinh Công Sứ cho biết tỉnh hiện có hơn 4 triệu dân, diện tích tự nhiên 9.361 km² với gần 83% là đất nông nghiệp. Sự phân hóa địa hình tạo nên nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau, cho phép phát triển hệ thống cây trồng đa dạng. Trong những năm gần đây, nông nghiệp Phú Thọ đã hình thành nền tảng sản xuất quy mô lớn, liên kết vùng nguyên liệu, chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn. Nhiều sản phẩm chủ lực như bưởi Đoan Hùng, chè Phú Thọ, cam Cao Phong hay mía tím Hòa Bình đã góp phần định vị thương hiệu nông sản an toàn và thân thiện. Tuy nhiên, sản xuất của vùng vẫn đối mặt nhiều thách thức, từ quy mô nhỏ lẻ, hạ tầng hạn chế đến biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ Đinh Công Sứ cho biết, địa phương cần sự đồng hành chặt chẽ của các bộ ngành, viện trường và doanh nghiệp để hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh. Ảnh: Hồng Đức.
Định hướng đến năm 2030, Phú Thọ đặt mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo ba tiểu vùng sinh thái; đẩy mạnh cơ giới hóa, tự động hóa và chuyển đổi số trong toàn chuỗi giá trị. Tỉnh cũng xây dựng cơ sở dữ liệu số về đất đai, mùa vụ, giống, vùng nguyên liệu và thị trường nhằm phục vụ quản lý và hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp.
Ông Đinh Công Sứ nhấn mạnh địa phương cần sự đồng hành chặt chẽ của các bộ ngành, viện trường và doanh nghiệp để hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh, bền vững, toàn diện cả kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.
Cánh cửa cho phát triển nông nghiệp
Trình bày báo cáo về giải pháp bảo vệ và nâng cao sức khỏe đất phục vụ sản xuất bền vững, ThS. Lê Thị Mỹ Hảo, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa nêu rõ tình trạng suy thoái đất đang diễn ra trên cả 3 miền với các dạng xói mòn, rửa trôi, giảm chất hữu cơ, chua hóa, mặn hóa và ô nhiễm. Một hệ thống bản đồ số tích hợp (WebGIS) được đề xuất nhằm theo dõi các chỉ số đất như pH, N, P, K, xói mòn, độ che phủ, phát thải khí nhà kính, SDG 2.4.1. Việc số hóa dữ liệu đất, cây trồng 10-20 năm sẽ giúp các địa phương lựa chọn cây trồng thích hợp, quy hoạch vùng sản xuất và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm. Theo bà Hảo, cơ sở dữ liệu mở còn cho phép viện trường và doanh nghiệp phát triển ứng dụng AI, mô hình dự báo hay bản đồ khuyến nghị phân bón. Bà cũng đề cập giải pháp giám sát đất bằng viễn thám, UAV và cảm biến thông minh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Ở lĩnh vực khuyến nông, TS. Hoàng Văn Hồng, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia nhấn mạnh vai trò của mô hình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng sản xuất. Các mô hình trình diễn giúp tăng hiệu quả từ 10-30%, góp phần thay đổi thói quen sản xuất, tăng năng suất và giảm tổn thất sau thu hoạch. Với lúa gạo, năng suất tại mô hình tăng 30-35%, thu nhập người dân tăng 20–25% và chi phí đầu vào giảm 5-10%. Trong cây ăn quả, năng suất tăng 10-15%, hiệu quả kinh tế tăng hơn 15%, toàn bộ sản phẩm đều được truy xuất nguồn gốc và một số diện tích đạt VietGAP. Các vùng nguyên liệu được hình thành rõ nét hơn, kéo theo sự phát triển của mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ gắn với tổ khuyến nông cộng đồng.
Từ góc độ người theo dõi sự phát triển của vùng trong nhiều năm, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh nhận xét sự chuyển mình của nông nghiệp miền núi phía Bắc là rất lớn. Nhiều nông sản đặc sản được thị trường đón nhận, hệ thống ruộng bậc thang được khai thác hiệu quả và năng suất lúa tăng nhanh nhất cả nước.
Việc chuyển đổi từ ngô nương sang cây ăn quả ở Sơn La hay cải thiện năng suất chè cho thấy khoa học công nghệ là chìa khóa của thay đổi. Độ che phủ rừng tăng 18% trong hai năm, theo ông Doanh, là minh chứng rõ ràng cho sự điều chỉnh phương thức canh tác. Ông đề xuất tiếp tục phát triển theo chiều sâu, xây dựng gói kỹ thuật theo từng tiểu vùng, đồng thời coi thương hiệu và liên kết sản xuất - du lịch là hướng đi nâng cao giá trị.
Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến một lần nữa nhấn mạnh vai trò cốt lõi của khoa học công nghệ trong việc đảm bảo an ninh lương thực, gia tăng độ che phủ rừng, phát triển thủy sản và hỗ trợ phòng chống thiên tai. Ông đánh giá hội thảo có tính khoa học cao, thông tin đầy đủ và chuyên sâu, thể hiện tinh thần phối hợp giữa các đơn vị trong ngành. “Sắp tới, Bộ sẽ ưu tiên nghiên cứu về biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, phổ cập tri thức số và tăng cường liên kết thương mại hóa sản phẩm. Khoa học công nghệ phải đi sâu, liên kết mọi lĩnh vực để mở cánh cửa phát triển mới cho nông nghiệp miền núi phía Bắc”, Thứ trưởng khẳng định.
















