Sáng 18/10, tại Hà Nội, Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”, dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Sự kiện quy tụ nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan báo chí nhằm thảo luận xu hướng quốc tế, thành tựu trong nước và giải pháp xây dựng hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen - lĩnh vực được xem là động lực mới của nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến (hàng đầu, ngoài cùng bên phải) cùng lãnh đạo các Cục, lãnh đạo Báo Nông nghiệp và Môi trường tham dự Diễn đàn 'Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp: Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý', sáng 18/10.
Theo Viện Di truyền Nông nghiệp, công nghệ chỉnh sửa gen cho phép tác động chính xác vào từng vị trí trong bộ gen cây trồng, giúp tạo giống có khả năng chịu mặn, kháng bệnh, tăng giá trị dinh dưỡng hoặc kéo dài thời gian bảo quản, mà không cần đưa gen ngoại lai như công nghệ chuyển gen (GMO).
Nhờ vậy, các sản phẩm chỉnh sửa gen gần như tương đồng với giống lai tự nhiên, đồng thời rút ngắn thời gian chọn tạo chỉ còn 2-5 năm, thay vì 10-15 năm như trước.
Tổng thuật: Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”
Nhiều viện, trường trong nước như Viện Di truyền Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM... đã làm chủ công nghệ này. Các kết quả nổi bật gồm lúa chịu mặn và kháng bệnh, đậu tương giảm đường khó tiêu, cà chua giàu carotenoid, hay ngô và đu đủ tăng năng suất và chất lượng.
Tuy nhiên, do Luật Đa dạng sinh học 2008 mới chỉ định nghĩa “sinh vật biến đổi gen”, các sản phẩm chỉnh sửa gen dù không chứa DNA ngoại lai vẫn bị xếp chung với GMO, gây khó khăn cho thương mại hóa và hội nhập quốc tế.
Các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tách biệt khái niệm “chỉnh sửa gen” khỏi “biến đổi gen”, đồng thời áp dụng cơ chế quản lý dựa trên bản chất sản phẩm, thay vì công nghệ sử dụng.

Công nghệ chỉnh sửa gen hiện rất phát triển trên thế giới. Ảnh minh họa.
Diễn đàn sáng 18/10 sẽ được nghe các báo cáo tham luận của TS Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường); TS Nguyễn Duy Phương, Viện Di truyền nông nghiệp; PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Đại học Quốc gia TP.HCM và TS Michael Leader, CropLife Châu Á. Ngoài ra, tọa đàm về ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam cũng được tổ chức trong khuôn khổ diễn đàn.
Sự kiện được kỳ vọng sẽ mở ra thảo luận về hướng hoàn thiện khung pháp lý linh hoạt, minh bạch, giúp Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển và thương mại hóa cây trồng chỉnh sửa gen, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hình ảnh các đại biểu tham dự trực tiếp diễn đàn:


11h30
Đẩy nhanh hoàn thiện khung pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp
Tổng kết hai phiên tại Diễn đàn về khoa học công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp, TS Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết Bộ đang khẩn trương hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ mới này.

Ông Long cho hay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm sắp tới là sớm phối hợp Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học để làm rõ khái niệm giữa “chỉnh sửa gen” và “biến đổi gen”. Đây là bước quan trọng nhằm chuẩn bị nội dung chỉnh sửa, bổ sung Luật Đa dạng sinh học, trước khi trình lãnh đạo Bộ xem xét.
Hiện Vụ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì soạn thảo Nghị định sửa đổi về sinh vật biến đổi gen (GMO), qua đó tạo nền tảng pháp lý vững chắc để quản lý, cấp phép và khuyến khích ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp.
Theo ông Long, quá trình triển khai sẽ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để báo cáo lãnh đạo Bộ những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại. Riêng về nguồn lực, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã mở ra cơ chế, chính sách mới giúp “cởi trói” cho các nhà khoa học, tạo điều kiện để nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa sản phẩm công nghệ cao.
“Chúng tôi mong các nhà khoa học và cơ quan truyền thông tiếp tục đồng hành để khoa học công nghệ trở thành mũi nhọn thực sự, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và hiện đại hóa ngành nông nghiệp”, TS Long nhấn mạnh.
11h25
Đưa khái niệm 'chỉnh sửa gen' vào luật - cơ hội vàng để hoàn thiện khung pháp lý
Tại Diễn đàn, bà Nguyễn Thị Kim Anh (ảnh), Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho rằng đã đến lúc cần thể chế hóa khái niệm “chỉnh sửa gen” trong hệ thống pháp luật để tạo căn cứ quản lý rõ ràng, phù hợp với thực tiễn phát triển công nghệ hiện nay.

Bà cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang trình Quốc hội dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật liên quan đến nông nghiệp, trong đó có Luật Đa dạng sinh học. Dự thảo hiện mới chỉ có định nghĩa về “sinh vật biến đổi gen”, trong khi “chỉnh sửa gen” chưa được đề cập.
Theo bà Kim Anh, cần bổ sung rõ ràng khái niệm “chỉnh sửa gen” vào Luật Đa dạng sinh học, làm cơ sở để Chính phủ ban hành quy định chi tiết, phân định phạm vi, tiêu chí và quy trình quản lý. Việc này không chỉ giúp thống nhất cách hiểu giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, mà còn bảo đảm cơ sở pháp lý cho công tác kiểm tra, giám sát và chuyển giao công nghệ.
Bà cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung liên quan đến chỉnh sửa gen trong Luật Trồng trọt và Luật Chăn nuôi, đồng thời xem xét sự tương thích trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, nhằm hình thành một khung pháp lý đồng bộ, thống nhất và khả thi.
“Đây là thời điểm ‘vàng’ để luật hóa khái niệm chỉnh sửa gen, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người sử dụng, bảo đảm tính minh bạch và thuận lợi trong quản lý”, bà Kim Anh nêu rõ.
11h20
GS.TSKH, Viện sĩ Trần Đình Long (ảnh) cho biết: "Các công nghệ mới như chỉnh sửa gen đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thể áp dụng các công nghệ này một cách rộng rãi".

Chủ tịch Hội giống cây trồng Việt nam nhấn mạnh định nghĩa ngay cây trồng chỉnh sửa gen và sinh vật biến đổi gen là khác nhau. Ông Long cho rằng một trong những việc cần làm ngay là thành lập phòng thí nghiệm ở các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu, tiến tới đạt chuẩn quốc tế.
11h10
Vướng mắc lớn nhất nằm ở khung pháp lý chưa hoàn thiện
Theo TS Nguyễn Quý Dương (ảnh), Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Việt Nam đã và đang tiếp cận công nghệ chỉnh sửa gen theo hướng quốc tế, song vướng mắc lớn nhất hiện nay nằm ở khung pháp lý chưa hoàn thiện. “Nghiên cứu khoa học chỉ thực sự có ý nghĩa khi có thể đưa kết quả vào sản xuất”, TS. Dương nhấn mạnh.

“Để làm được điều đó, các quy định pháp luật phải được điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Trong đó, làm rõ các khái niệm: Đâu là chỉnh sửa gen và đâu là biến đổi gen, bởi đây là nền tảng để xác định cơ chế áp dụng phù hợp. Hiện Cục đang tham gia sửa đổi luật và tiến tới sửa đổi các nghị định, thông tư hướng dẫn. Quá trình này cần sự tham gia, đóng góp tích cực từ đội ngũ nhà khoa học, nhằm đảm bảo tính khả thi và đồng bộ”, lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết.
Hiện nay, nước ta chưa có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật cho giống chỉnh sửa gen. Khi giống mới được tạo ra mà không có quy định để đánh giá, kiểm định chất lượng, thì các sản phẩm đó vẫn chưa thể thương mại hóa. Vì vậy, Phó Cục trưởng Nguyễn Quý Dương đề nghị sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn về phương pháp thử, đồng thời chỉ định rõ các phòng thí nghiệm đạt chuẩn, tạo hành lang pháp lý đầy đủ trong ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam.
11h00
Cần phải tiến hành xây dựng khung pháp lý trước
Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo (ảnh) - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed - cho biết: “Việc thiếu khung pháp lý rõ ràng đã ảnh hưởng đến quá trình triển khai và ứng dụng các công nghệ, giải pháp mới trong nông nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng các sản phẩm, công nghệ chưa được công nhận và áp dụng rộng rãi”.

Ông Báo nêu vấn đề: Cơ quan nào giám sát, tham mưu để Bộ Nông nghiệp và Môi trường công nhận các khái niệm, các giống cây trồng, vật nuôi chỉnh sửa gen? Nguồn lực, kinh phí đầu tư và tạo hệ sinh thái pháp lý, thực tế gắn kết sẽ được cụ thể hóa thế nào?
Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo khẳng định, cần xây dựng khung pháp lý trước, sau đó mới phát triển hệ thống nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp để tạo hệ sinh thái hỗ trợ hiệu quả. Cuối cùng là đầu tư nguồn lực, kinh phí đầy đủ cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và triển khai các công cụ, công nghệ mới.
Chia sẻ thêm về câu chuyện nghiên cứu, TS Trần Minh Thu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed thừa nhận, khía cạnh “khung pháp lý” rất quan trọng khi đưa các sản phẩm nông nghiệp ra thế giới, bên cạnh hợp tác công tư và đầu tư vốn.
Bà Thu lấy ví dụ, Công ty Bayer, với doanh thu hàng chục tỉ USD mỗi năm, luôn dành khoảng 5% để phục vụ cho nghiên cứu R&D. Hoặc nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ ưu tiên thời gian nghiên cứu giống mới đến hàng chục năm.

Nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ ưu tiên thời gian nghiên cứu giống mới đến hàng chục năm. Ảnh minh họa.
“Công nghệ sinh học là câu chuyện dài hơi, đòi hỏi nền tảng vững chắc ngay từ pháp lý”, bà Thu nhấn mạnh.
GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp thì cho rằng, ở đâu đó trong xã hội vẫn còn có những ý kiến chưa đồng thuận, chưa hiểu rõ về chỉnh sửa gen. Vẫn có sự nhầm lẫn với đột biến gen.
“Báo chí có vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức cho xã hội về vấn đề này. Chúng ta trước hết cần hiểu đúng”, ông Hàm nói và kêu gọi sự chung tay của nhiều hơn các cơ quan truyền thông.
10h47
Hài hòa pháp luật công nghệ gen với mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học
Bà Tạ Thị Kiều Anh, Phòng Loài, nguồn gen và an toàn sinh học, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, cho biết, Luật Đa dạng sinh học được ra đời từ 2008, với bối cảnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học tại thời điểm đó đặt ra vấn đề về quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen. Nên định nghĩa của Luật tại thời điểm đó là phù hợp.
Tuy nhiên, đến nay, qua gần 20 năm thì công nghệ sinh học đã có những bước tiến vượt bậc, pháp luật cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Do đó, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học đã báo cáo Lãnh đạo Bộ và đề xuất chỉnh sửa định nghĩa về sinh vật biến đổi gen.

Bà Tạ Thị Kiều Anh, Phòng Loài, nguồn gen và an toàn sinh học, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học.
Hiện nay, dự thảo sửa đổi các Điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường trong đó có Luật Đa dạng sinh học đang được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp lần này.
Theo đó, định nghĩa về sinh vật biến đổi gen đã được đề xuất điều chỉnh để cập nhất với những tiến bộ mới của công nghệ sinh học. Cụ thể, sinh vật biến đổi gen là sinh vật mang vật liệu di truyền được thay đổi bằng công nghệ gen và chứa vật liệu di truyền mới có nguồn gốc từ loài khác hoặc có nguồn gốc từ tổng hợp nhân tạo nhưng không tương tự thành phần, cấu trúc gen của loài đó.
Tại Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng, Việt Nam đang có nền tảng pháp lý tương đối đầy đủ và hài hòa với quốc tế về an toàn sinh học đối với công nghệ sinh học nói chung và cây trồng biến đổi gen nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghệ chỉnh sửa gen phát triển mạnh mẽ, khung pháp lý hiện nay cần được cập nhật để phù hợp với thực tiễn mới.

Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Theo bà Thủy, việc điều chỉnh pháp lý là xu hướng tất yếu mà nhiều quốc gia tiên tiến đã và đang thực hiện. Mỗi lần sửa đổi hệ thống quy định, cần bảo đảm tinh thần cởi mở, tham vấn đầy đủ các bên liên quan - từ cơ quan quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp đến các tổ chức và cộng đồng chịu tác động.
Bà Thủy chia sẻ, Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, đơn vị đầu mối được giao hoàn thiện quy định mới, đang chịu áp lực lớn khi phải hoàn thiện văn bản trong bối cảnh công nghệ thay đổi từng ngày, còn yêu cầu quản lý phải vừa kịp thời vừa chính xác.
Bà nhấn mạnh, mục tiêu cốt lõi của khung pháp lý là tạo được sự cân bằng giữa ba yếu tố: thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm an toàn sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời hài hòa với các cam kết quốc tế. Để đạt được điều này, hệ thống pháp luật cần minh bạch, rõ ràng và thống nhất, trước hết phải định nghĩa chính xác các khái niệm “biến đổi gen (GMO)” và “chỉnh sửa gen (GE)”.
Bà cũng đề xuất xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan - cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp - nhằm tránh dồn toàn bộ rủi ro về một phía. Song song, Việt Nam cần phát triển phương pháp và công nghệ đánh giá rủi ro đáng tin cậy, cùng đội ngũ chuyên gia đủ năng lực để thẩm định hồ sơ kỹ thuật và tư vấn chính sách.
Về hướng đi, bà Thủy cho rằng Việt Nam nên chuyển sang quản lý dựa trên sản phẩm cuối cùng thay vì chỉ dựa vào quy trình công nghệ, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát, truy xuất nguồn gốc minh bạch.
10h37
'Thời điểm vàng' để Việt Nam nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen
TS Trần Minh Thu (ảnh), Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed, cho biết, dù đã xây dựng được hệ sinh thái từ nghiên cứu, sản xuất đến thương mại, Công ty vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, dịch bệnh trên cây trồng và áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Thực tế, trước đây một giống cây có thể tồn tại ổn định từ 3-5 năm, nhưng hiện nay có những giống chỉ sau một năm ra thị trường đã bị thay thế. Vinaseed hiện vẫn chủ yếu chọn tạo giống bằng phương pháp lai tạo truyền thống, đòi hỏi thời gian dài và nguồn lực lớn.
Chẳng hạn, giống lúa Đài thơm 8 nổi tiếng của công ty phải mất tới bảy năm mới hoàn thiện. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của công nghệ chỉnh sửa gen, các doanh nghiệp quy mô nhỏ cũng có thể rút ngắn đáng kể thời gian chọn tạo, đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu của giống cây trồng.
TS Thu cho rằng đây là “thời điểm vàng” để Việt Nam nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen, song cần phân biệt rõ giữa chỉnh sửa gen (GE) và biến đổi gen (GMO) để có định hướng thương mại phù hợp.

Đây là “thời điểm vàng” để Việt Nam nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen. Ảnh minh họa: Shutterstock.
“Chúng ta cần sớm xây dựng khung pháp lý cụ thể về chỉnh sửa gen, dựa trên kinh nghiệm từ các quốc gia khác như Australia, Mỹ và Singapore. Đồng thời, đẩy mạnh mô hình hợp tác công - tư, trong đó doanh nghiệp phối hợp với các viện nghiên cứu các giống mới để giảm gánh nặng ngân sách, phù hợp với nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và thúc đẩy nông nghiệp bền vững”, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed cho biết.
10h25
Làm rõ, hiểu thống nhất về ba khái niệm nền tảng
Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, điều đầu tiên cần làm rõ chính là cách hiểu thống nhất giữa các bên, từ nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp đến người dân, về ba khái niệm nền tảng: di truyền chọn tạo truyền thống, chỉnh sửa gen, và biến đổi gen.

TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đề nghị làm rõ, hiểu thống nhất về ba khái niệm nền tảng: di truyền chọn tạo truyền thống, chỉnh sửa gen, và biến đổi gen.
Theo ông Long, ba khái niệm này không thể bị lẫn lộn, trong các văn bản pháp luật hiện hành, đặc biệt là các nghị định và dự thảo liên quan, ranh giới giữa “chỉnh sửa gen” và “biến đổi gen” vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Vì vậy, ông đề nghị các chuyên gia cần thống nhất cách hiểu khoa học để từ đó cơ quan quản lý có thể ban hành các quy định phù hợp, tương xứng với từng loại sản phẩm sinh vật.
Ông nhấn mạnh thêm rằng trong nông nghiệp, cần phân biệt rõ giữa nhóm sản phẩm sinh vật phục vụ sản xuất nông nghiệp và nhóm sản phẩm phục vụ thực phẩm. Ví dụ, thức ăn chăn nuôi có yêu cầu quản lý khác với thực phẩm cho người, nên không thể áp dụng chung một quy trình hay một khung giám sát. Đây chính là thách thức trong quản lý nhà nước khi các sản phẩm sinh học ngày càng đa dạng và ranh giới giữa mục đích sử dụng ngày càng mờ.
Về phương diện chính sách, ông Long cho biết trước đây nhiều công trình nghiên cứu của Việt Nam bị “ách tắc” trong khâu chuyển giao sản phẩm, chủ yếu do chưa có hành lang pháp lý rõ ràng. Tuy nhiên, tình hình hiện nay đã “được cởi trói” nhờ các văn bản mới như Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 193 của Chính phủ, và Nghị định 88, giúp tháo gỡ vướng mắc trong việc chuyển giao kết quả nghiên cứu và thúc đẩy hợp tác công - tư.
Đặc biệt, theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 5/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ, công nghệ gen được xác định là một trong 11 công nghệ chiến lược quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 5/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ, công nghệ gen được xác định là một trong 11 công nghệ chiến lược quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh minh họa.
Ông Long cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang mở các đợt đăng ký 52 nhiệm vụ khoa học công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 57, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp trong các đề tài nghiên cứu, để bảo đảm các kết quả không chỉ dừng lại ở phòng thí nghiệm mà có thể ứng dụng, sản xuất và thương mại hóa thực tế.
Ông nhấn mạnh rằng sự tham gia của doanh nghiệp là yếu tố quyết định trong chuỗi liên kết gồm nhà khoa học - nhà quản lý - doanh nghiệp - người sử dụng, vì chỉ khi có doanh nghiệp đồng hành, các kết quả nghiên cứu mới được chuyển giao nhanh chóng và hiệu quả.
TS. Long kêu gọi các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp cùng tận dụng cơ hội này, khi cơ chế đã thông thoáng và rõ ràng hơn trước. Cuối cùng, ông Long nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong nghiên cứu công nghệ gen.
10h13
Động vật chỉnh sửa gen và bài toán đạo đức trong nghiên cứu
PGS.TS Phạm Doãn Lân (ảnh), Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi, cho rằng, để tạo ra một cá thể sống bằng công nghệ chỉnh sửa gen thường mất nhiều thời gian hơn so với thực vật, bởi quy trình phải kết hợp cả công nghệ sinh sản và nhân bản phức tạp.

Theo ông Lân, có 2 hướng chính để tạo ra động vật chỉnh sửa gen. Thứ nhất là chỉnh sửa trực tiếp trên phôi, trong đó các nhà khoa học sử dụng công cụ CRISPR-Cas9 để cắt, chèn hoặc thay đổi gen ở giai đoạn sớm của phôi. Sau đó, phôi này được cấy vào tử cung của động vật cái để phát triển thành cá thể hoàn chỉnh mang đặc tính di truyền mới.
Thứ hai là chỉnh sửa gen trên tế bào soma rồi nhân bản vô tính. Ở hướng này, nhân của tế bào đã chỉnh sửa (thường là tế bào da hoặc mô liên kết) được chuyển vào trứng đã loại bỏ nhân, rồi để phát triển thành phôi và cấy vào động vật mang thai hộ.
Cả 2 quy trình đều đòi hỏi kỹ thuật cao, chi phí lớn và sự kiểm soát chặt chẽ về an toàn sinh học.
Tuy nhiên, động vật chỉnh sửa gen luôn là chủ đề gây nhiều tranh luận về đạo đức. Theo ông Lân, ngành chăn nuôi chỉ nên lựa chọn những tính trạng chỉnh sửa không ảnh hưởng đến phúc lợi động vật, chẳng hạn như tăng sức đề kháng với bệnh, cải thiện năng suất sinh sản hay giảm phát thải... Việc lựa chọn phương pháp cũng phải bảo đảm an toàn, tuân thủ khung pháp lý, tránh gây tổn hại hoặc biến đổi ngoài mong muốn cho vật nuôi.
Thực tế, nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Quốc và Australia đã có cách tiếp cận cởi mở hơn trong nghiên cứu chỉnh sửa gen trên động vật. Dù vậy, nguyên tắc chung vẫn là kiểm soát và đánh giá nghiêm ngặt từ giai đoạn mang thai, đảm bảo không để cá thể sinh ra mang đặc tính di truyền bất thường hoặc ảnh hưởng đến cân bằng sinh học.

Nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Quốc và Australia đã có cách tiếp cận cởi mở hơn trong nghiên cứu chỉnh sửa gen trên động vật. Ảnh minh họa.
Tại Việt Nam, PGS.TS Phạm Doãn Lân cho rằng, khung pháp lý cần mở hơn để các nhà khoa học có cơ hội nghiên cứu chỉnh sửa gen phục vụ kháng bệnh và y học, thay vì bó hẹp trong các quy định cũ. “Nếu giữ nguyên mức kinh phí theo chu kỳ 3-5 năm như hiện nay, thì rất khó để tạo ra sản phẩm cuối có tính trạng mong muốn”, ông nói, đồng thời nhấn mạnh rằng đổi mới cơ chế tài chính và khuyến khích nghiên cứu dài hạn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam bắt kịp các quốc gia đi trước trong lĩnh vực công nghệ gen.
10h03
Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa 'các nhà'
PGS.TS Nguyễn Phương Thảo - Giảng viên khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP. HCM, cho rằng, các bên liên quan như nhà khoa học, doanh nghiệp, Nhà nước, cần phối hợp chặt chẽ. Sự hỗ trợ và đầu tư từ Nhà nước là rất quan trọng để tạo điều kiện cho các nhà khoa học và doanh nghiệp hợp tác hiệu quả.

Bà Thảo cho biết các nhà khoa học đều có mong muốn đưa công trình của mình vào thực tế. "Nhà nước cần tham gia đầu tư vào nghiên cứu cơ bản, làm cơ sở cho nghiên cứu ứng dụng. Cần có sự hợp tác và chia sẻ rủi ro giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và Nhà nước", PGS.TS Nguyễn Phương Thảo kiến nghị.
10h00
Công nghệ chỉnh sửa gen - một trong những đột phá quan trọng nhất của thế kỷ XXI
Theo GS.TS. Lê Huy Hàm (ảnh), Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia về Công nghệ sinh học, công nghệ chỉnh sửa gen được xem là một trong những đột phá quan trọng nhất của thế kỷ XXI, mở ra hướng giải quyết hiệu quả cho nhiều vấn đề toàn cầu về y tế, môi trường và an ninh lương thực.

Từ năm 2012 đến nay, đã có hơn 17.000 bằng sáng chế được đăng ký trên thế giới (Trung Quốc 46%, Hoa Kỳ 40%,…), cho thấy các quốc gia phát triển đầu tư rất lớn vào lĩnh vực này. Nắm bắt xu thế này, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh vai trò chiến lược của công nghệ này. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đây là một trong 11 công nghệ chiến lược quốc gia trong thời gian tới.
GS.TS. Lê Huy Hàm khẳng định, bài học từ công nghệ biến đổi gen trước đây là kinh nghiệm quý giá cho quá trình xây dựng quy chế mới.
Theo ông, quá trình xây dựng quy chế quản lý sinh vật biến đổi gen trước đây kéo dài gần một thập kỷ, dưới sự chỉ đạo của nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát, là bài học quý về việc ban hành chính sách dựa trên cơ sở khoa học và đánh giá rủi ro. Chính nền tảng đó đã giúp Việt Nam ứng dụng thành công giống ngô biến đổi gen, mang lại lợi ích kinh tế hàng trăm triệu USD cho nông dân.
"Hiện nay, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học và các cơ quan đang thúc đẩy việc sửa đổi, làm rõ khái niệm về ‘biến đổi gen’. Trong đó, phân biệt rõ ranh giới pháp lý giữa sinh vật biến đổi gen (GMO) và sinh vật chỉnh sửa gen (GE) dựa trên bản chất của ADN sản phẩm cuối cùng. Việc sớm ban hành khung pháp lý cụ thể sẽ giúp các nhà khoa học có cơ sở nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen hiệu quả, chính xác hơn", ông Hàm chia sẻ.
Tuy nhiên, GS.TS. Hàm cũng lưu ý Việt Nam cần thận trọng trong bối cảnh quy định quốc tế về công nghệ này còn chưa thống nhất, đặc biệt với các loại cây trồng phục vụ xuất khẩu. Ông nhấn mạnh, cần lựa chọn, tập trung nghiên cứu những tính trạng mang giá trị kinh tế cao, đồng thời quan tâm đến vấn đề bản quyền, nhằm bảo vệ quyền lợi khi thương mại hóa sản phẩm chỉnh sửa gen ra thị trường quốc tế.
9h40
Tiến hành tọa đàm trong khuôn khổ diễn đàn
Bước sang phần tiếp theo của Diễn đàn, nhà báo Trần Cao, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, điều phối Tọa đàm "Hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy hợp tác công - tư trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam".

Theo ông Cao, tọa đàm vui mừng và vinh dự khi được đón những chuyên gia đầu ngành về công nghệ sinh học. Mục tiêu nhằm không đánh mất cơ hội phát triển các mũi nhọn khoa học công nghệ, đặc biệt là chỉnh sửa gen, nhưng vẫn hài hòa với định hướng bảo vệ môi trường, đảm bảo đa dạng sinh học.
Tham dự tọa đàm có 5 diễn giả, gồm: GS.TS Lê Huy Hàm - Chủ nhiệm Chương trình KC12: Định hướng Nghiên cứu công nghệ sinh học, chỉnh sửa gen cấp quốc gia; TS Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ: Định hướng nghiên cứu công nghệ sinh học, chỉnh sửa gen ngành nông nghiệp; PGS.TS Phạm Doãn Lân - Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi: Chỉnh sửa gen trên động vật; PGS.TS Nguyễn Thị Phương Thảo - Khoa Công nghệ sinh học - Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM; TS Trần Minh Thu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed.
9h15
Hài hòa khung pháp lý để thúc đẩy nghiên cứu chỉnh sửa gen
TS Michael Leader, thành viên Tổ Công tác Chỉnh sửa gen của CropLife Châu Á, chia sẻ rằng mất trung bình khoảng 16 năm để một sản phẩm biến đổi gen (GMO) ra được thị trường, trong đó hơn một nửa thời gian dành cho quy trình đăng ký, tiêu tốn hàng triệu USD.

TS Michael Leader, thành viên Tổ Công tác Chỉnh sửa gen của CropLife Châu Á, trình bày tham luận online "Trends in the regulation and development of genome edited crops: an industry perspective" (“Xu hướng trong quản lý và phát triển cây trồng chỉnh sửa gen: góc nhìn từ ngành công nghiệp”).
Ông cho rằng, ngành giống cây trồng toàn cầu đang hướng tới một cách tiếp cận pháp lý nhất quán, linh hoạt và dựa trên cơ sở khoa học cho việc quản lý các công nghệ chọn tạo giống mới. “Nguyên tắc cốt lõi là, những giống cây được phát triển bằng phương pháp mới, nếu không phân biệt với các giống tạo ra bằng cách truyền thống, thì không nên bị quản lý khác biệt”, ông nói.
Theo chuyên gia CropLife, mục tiêu của các quốc gia là hướng tới sự hài hòa trong khung pháp lý, giúp người tiêu dùng hiểu rõ thành phần sản phẩm cuối cùng cũng như đảm bảo các yếu tố liên quan đến sức khỏe. Nhiều nước ở khu vực Mỹ Latinh đã áp dụng chính sách quản lý linh hoạt, thực tiễn với cây trồng chỉnh sửa gen, tập trung đánh giá đặc điểm phân tử để xác nhận không có DNA ngoại lai.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, xu hướng tương tự đang diễn ra. Thái Lan tập trung nghiên cứu đậu tương, ngô, sắn và rau ăn lá. Indonesia và Philippines thì đánh giá dựa trên câu hỏi sản phẩm có chứa tổ hợp vật liệu di truyền mới trong kết quả cuối hay không - nếu không, sản phẩm được xem như thông thường.
“Thay vì tập trung vào công nghệ tạo ra sản phẩm, xu hướng hiện nay là xem xét sản phẩm cuối có khả năng lai chéo hay tái tổ hợp hay không”, ông Leader giải thích, nhấn mạnh rằng sự thiếu rõ ràng trong khung pháp lý đang là rào cản khiến nông dân và nhà khoa học công lập khó tiếp cận các công nghệ mới. Ngược lại, ở những nơi có chính sách minh bạch, các hoạt động nghiên cứu, phát triển và hợp tác thương mại đều tăng trưởng mạnh.
Theo TS Leader, các dự án nghiên cứu chỉnh sửa gen đòi hỏi nguồn lực lớn, có thể lên tới hàng trăm triệu USD, do đó hợp tác quốc tế giữa các quốc gia và tổ chức là yếu tố then chốt. Hiện trên toàn cầu, khoảng 200 mục tiêu chỉnh sửa gen có ý nghĩa thương mại cao đang được triển khai, mở ra triển vọng lớn cho nông nghiệp hiện đại, nếu đi kèm với một khung pháp lý cập nhật và nhất quán.
9h07
Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm dẫn dắt về đổi mới công nghệ sinh học
“Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm dẫn dắt về đổi mới công nghệ sinh học, đặc biệt là đối với cây trồng nhiệt đới, nếu có những chính sách cởi mở và hỗ trợ phù hợp. Ngoài ra, chúng ta cần sớm hoàn thiện khung pháp lý và chính sách liên quan đến công nghệ chỉnh sửa gen, bao gồm các tiêu chuẩn an toàn, quy trình xác nhận, cơ chế hỗ trợ tài chính. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các sản phẩm được đưa vào thương mại hóa”, PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (ảnh), Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM, cho biết.

Diễn giả đến từ khoa Công nghệ sinh học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP.HCM, nhấn mạnh, công nghệ chỉnh sửa gen đang ngày càng được chấp nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới, ngay cả ở những quốc gia truyền thống bảo thủ như Nhật Bản.
Một trong những tiềm năng, cũng là thách thức với các nhà khoa học là ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen cho cây trồng lâu năm, như chu kỳ sinh trưởng dài, khó khăn trong nuôi cấy và tái sinh. Bà Thảo cho rằng, cần các các nỗ lực hợp tác quốc tế để giải quyết những thách thức này, đặc biệt là trong trường hợp cây dừa.
“Nếu không hợp tác với các nhà khoa học, tổ chức khoa học trong và ngoài nước, thì một đơn vị nghiên cứu đơn độc sẽ khó làm ra sản phẩm. Ngoài ra, cũng cần đến sự hỗ trợ từ Nhà nước, bởi nghiên cứu chỉnh sửa gen có thể thành công hoặc không, khá mạo hiểm nên chưa hấp dẫn doanh nghiệp”, bà Thảo cho biết.
8h57
Cần sớm ban hành quy chế quản lý riêng cho cây trồng chỉnh sửa gen
Chia sẻ tại Diễn đàn, TS Nguyễn Duy Phương (ảnh), Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), cho biết công nghệ chỉnh sửa gen đã và đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, với tiềm năng rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu so với công nghệ chuyển gen truyền thống.

Ông cho biết, trên thế giới, công nghệ chỉnh sửa gen phát triển mạnh mẽ từ đầu những năm 2000, với hàng nghìn công bố khoa học mỗi năm. Các ứng dụng chủ yếu tập trung vào cây trồng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu điểm nổi bật là có thể rút ngắn chu kỳ chọn giống từ 6-15 năm xuống còn 2-5 năm, đồng thời tăng độ chính xác khi chọn lọc các tính trạng mong muốn.
Theo TS Phương, cần phân biệt rõ giữa công nghệ chuyển gen (transgenic technology) - tức là tạo sinh vật có ADN ngoại lai, và công nghệ chỉnh sửa gen (gene editing) - thay đổi ADN nội sinh của chính sinh vật đó. Trong nhóm công nghệ chỉnh sửa gen, CRISPR-Cas9 hiện là công cụ phổ biến nhất, giúp tạo ra các đột biến chính xác mà không để lại dấu vết ADN lạ.
Tại Việt Nam, nền tảng khoa học và nhân lực cho lĩnh vực này đã hình thành rõ nét. Nhiều đơn vị nghiên cứu như Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Sinh học Việt Nam và một số trường đại học đã tiếp cận, triển khai và bước đầu làm chủ công nghệ chỉnh sửa gen, đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thử nghiệm, tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, ông Phương cho rằng công nghệ này hiện đang bị “trói buộc” bởi việc thiếu quy chế quản lý riêng, khiến nhiều kết quả nghiên cứu chưa thể thương mại hóa.
“Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Vấn đề bây giờ là chúng ta cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, doanh nghiệp ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu”, ông nhấn mạnh.

Nghiên cứu chỉnh sửa gen trên giống cây trồng tại Trung tâm Thông tin - Ứng dụng khoa học và công nghệ Bình Định (cũ).
Ông cũng khuyến nghị Việt Nam nên tiếp cận quản lý cây trồng chỉnh sửa gen theo hướng “đánh giá sản phẩm cuối cùng” thay vì quá chú trọng phương pháp tạo ra. Đồng thời, cần điều chỉnh một số khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học, chẳng hạn xác định rõ “sinh vật biến đổi gen là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công nghệ chuyển gen”.
Theo ông Phương, thế giới đang tiến rất nhanh trong lĩnh vực này, từ nghiên cứu, ứng dụng, đăng ký bản quyền đến quy định quản lý và thương mại hóa sản phẩm. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để không bị bỏ lại phía sau, nhưng để làm được điều đó, cả công chúng, nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách cần hiểu đúng bản chất của công nghệ chỉnh sửa gen, tránh nhầm lẫn với GMO, và có cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp của đất nước.
8h40
Hoàn thiện khung pháp lý về công nghệ chỉnh sửa gen
Chia sẻ về kinh nghiệm quản lý sản phẩm Biến đổi Gen (GMO), TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, cho biết thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen: thứ nhất là đánh giá rủi ro dựa vào đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc vào công nghệ tạo ra nó; thứ hai là dựa trên công nghệ tạo ra sản phẩm.

TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, trình bày tham luận về kinh nghiệm quản lý sản phẩm Biến đổi Gen (GMO).
Một số quốc gia không xem sinh vật chỉnh sửa gen là GMO nếu việc chỉnh sửa không thêm gen từ loài khác hoặc không tạo ra tổ hợp gen mới trong sản phẩm cuối cùng. Tiêu biểu, tại Australia, từ năm 2019, các sinh vật được chỉnh sửa theo cơ chế SDN1 (không có sự chèn DNA ngoại lai) không còn được xem là sinh vật biến đổi gen.
“Xu hướng toàn cầu về quản lý cây trồng chỉnh sửa gen đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích của công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Cùng với đó, nhiều nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá sản phẩm ngày càng dựa trên đặc tính của cây trồng cuối cùng thay vì quy trình công nghệ tạo ra nó, nhất là với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai”, ông Long thông tin.

Nhiều nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Ảnh minh họa.
Tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 đã đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gen và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO. Tuy nhiên, đối với công nghệ chỉnh sửa gen, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện.
Công tác truyền thông khoa học còn hạn chế khiến xã hội vẫn có tâm lý dè dặt với các sản phẩm biến đổi và chỉnh sửa gen, trong khi mối liên kết giữa nghiên cứu - doanh nghiệp - sản xuất chưa thật sự hiệu quả.
Để tháo gỡ, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học 2008 để cập nhật khái niệm và quy định về chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý này đòi hỏi thời gian, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, nhà khoa học và doanh nghiệp, cùng cam kết mạnh mẽ từ các nhà hoạch định chính sách.
“Chúng tôi sẽ tiếp tục hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm và cơ sở dữ liệu gen quốc gia, đồng thời phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, định hướng các chương trình nghiên cứu trọng điểm gắn với đổi mới sáng tạo. Song song đó, hợp tác quốc tế theo hệ thống, bảo hộ sở hữu trí tuệ, công tác truyền thông và chuyển đổi số sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, ông Long nhấn mạnh.
8h30
Kỳ vọng về một ‘Khoán 10’ trong khoa học công nghệ
Phát biểu khai mạc Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả.
Theo Thứ trưởng, tinh thần phát triển khoa học công nghệ đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đặc biệt là định hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ và kinh tế tuần hoàn. Gần đây, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ban hành ngày 10/7/2024 tiếp tục nhấn mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. “Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.
Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.
Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả. “Chúng ta cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng họ trăn trở với nghiên cứu nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ.
Ông ví diễn đàn sáng 18/10 sẽ góp phần tạo ra một 'Khoán 10' mới trong khoa học công nghệ, giúp 'cởi trói' cho nhà nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo và khơi dậy tinh thần dấn thân trong cộng đồng khoa học.
Theo Thứ trưởng, sự kiện diễn ra rất đúng thời điểm, là cơ hội để tổng kết lý luận, thực tiễn, qua đó hình thành những luận cứ quan trọng cho việc xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định pháp luật, tạo nền tảng cho sự bứt phá của khoa học công nghệ trong nông nghiệp giai đoạn mới.