Sáng 17/10, tại TP. Hồ Chí Minh, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức Diễn đàn “Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện theo Nghị quyết 57”.

Rất đông đại biểu, phóng viên các cơ quan báo chí Trung ương, địa phương tham dự diễn đàn “Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện theo Nghị quyết 57”, sáng 17/10.
Sự kiện nhằm trao đổi, đánh giá và chia sẻ các mô hình, giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trong công tác quản lý, điều hành, khai thác và cung cấp dịch vụ thủy lợi, hướng tới mục tiêu hiện đại hóa ngành, đảm bảo an ninh nguồn nước và thích ứng với biến đổi khí hậu theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Diễn đàn có sự tham dự của lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, lãnh đạo Báo Nông nghiệp và Môi trường, cùng đại diện các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường như Vụ Kế hoạch Tài chính, Vụ Khoa học Công nghệ, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi, Công ty Khai thác Thủy lợi miền Nam... Ngoài ra, còn có sự tham gia của các Sở Nông nghiệp và Môi trường, doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia và cơ quan báo chí khu vực phía Nam.

Biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, nhu cầu sử dụng nước gia tăng, đòi hỏi vận hành công trình thủy lợi cần áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ. Ảnh: VGP.
Tại Diễn đàn, các tham luận sẽ tập trung vào những vấn đề nổi bật như: đổi mới và sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành vận hành công trình thủy lợi thời kỳ số; ứng dụng công nghệ trong dự báo nguồn nước và xâm nhập mặn phục vụ lập kế hoạch vận hành hiệu quả; phát triển mạng lưới giám sát thông minh hỗ trợ canh tác thích ứng biến đổi khí hậu; công cụ AI tự động thu thập, chuẩn hóa dữ liệu nguồn nước phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung.
Diễn đàn được kỳ vọng sẽ là dịp kết nối các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và địa phương, cùng chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả, minh bạch và bền vững trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi quốc gia.
11h30
Phát triển thủy lợi thông minh phải gắn với mục tiêu đa chức năng và bền vững
Phát biểu kết thúc diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, đánh giá cao loạt diễn đàn do Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức gần đây. Đặc biệt, diễn đàn hôm nay đã thu hút nhiều ý kiến đóng góp tâm huyết, mang tính xây dựng từ các chuyên gia, nhà khoa học và đơn vị quản lý, qua đó giúp ngành thủy lợi nhìn nhận rõ hơn những yêu cầu, thách thức cũng như định hướng trong quá trình chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn.

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho rằng, đầu tư phát triển thủy lợi thông minh phải gắn với mục tiêu đa chức năng.
“Các tham luận đã đề cập toàn diện đến các khía cạnh quan trọng trong quản lý thủy lợi, từ đó làm rõ chức năng, nhiệm vụ và hướng đi của ngành trong thời gian tới. Trước hết, cần tăng cường năng lực và nhận thức về chuyển đổi số trong toàn ngành; nâng cao độ tin cậy và tính chính xác của công tác dự báo, nhất là trong biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.
Cùng với đó, phải chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy dự báo sang hành động cụ thể. Việc ứng dụng công nghệ vào hệ thống công trình như SCADA hay các hệ thống đóng, mở cống tự động cần đi đôi với công tác vận hành, quản lí để đảm bảo khả năng chống chịu và thích ứng với thiên tai”, ông Nguyễn Tùng Phong nhấn mạnh.
Về hạ tầng, Lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, đầu tư phát triển thủy lợi thông minh phải gắn với mục tiêu đa chức năng: phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường. Quá trình này không chỉ dừng ở đầu tư ban đầu mà còn phải được duy trì sau đầu tư, đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả. Song song đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ kỹ sư, cán bộ vận hành có kỹ năng số.
Chuyển đổi số phải bắt từ dự báo, tư duy đầu tư, quản lý vận hành đến xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu dùng chung. “Trong thời gian tới, Cục sẽ phối hợp với Cục Chuyển đổi số xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và sẵn sàng chia sẻ hai chiều giữa trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, các ngành, các cấp và địa phương cần phối hợp đồng bộ để hình thành hệ thống thủy lợi thông minh, thích ứng và phát triển bền vững trong thời đại số”, Cục trưởng Nguyễn Tùng Phong nhấn mạnh.
11h17
Chuyển đổi số ngành thủy lợi cũng cần bài bản như xây nhà
Phát biểu tại Diễn đàn, GS.TS Lê Mạnh Hùng (ảnh), Chủ tịch Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM đánh giá cao 5 báo cáo tham luận đã trình bày. Ông cho rằng báo cáo đầu tiên về nền tảng thủy lợi số chính là “phần đáy” quan trọng, cơ sở để triển khai chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo một cách bài bản, có hệ thống. Các báo cáo tiếp theo đã cụ thể hóa từng lĩnh vực cần đầu tư và từng bước hoàn thiện để mang lại hiệu quả thực tiễn.

Tuy nhiên, GS.TS Hùng nhấn mạnh: “Chúng ta đều biết chuyển đổi số là xu thế tất yếu, là yêu cầu cấp bách. Nhưng câu hỏi lớn là: Làm như thế nào? Làm đến đâu? Và làm sao để có nguồn lực thực hiện?”. Nhiều địa phương rất muốn làm, nhưng vướng ở chỗ thiếu cơ chế tài chính hoặc không có định hướng rõ ràng từ Trung ương.
Ông Hùng đề xuất ngành thủy lợi cần tiếp tục hoàn thiện nền tảng quản lý tập trung, đảm bảo đồng bộ từ phần cứng đến phần mềm, từ định mức kỹ thuật đến khung quản trị tài chính. “Không thể để mỗi địa phương, mỗi đơn vị lại dùng một loại thiết bị, một phần mềm khác nhau. Quản lý ngành mà (đến mức) phải mở hàng chục app, hệ thống riêng rẽ là bất cập lớn”.
Một trong những giải pháp then chốt theo GS Hùng là thiết lập một bộ khung chuẩn, phân loại cụ thể từng loại công trình, nhiệm vụ, thiết bị… từ đó giao nhiệm vụ rõ ràng cho các đơn vị nghiên cứu, tư vấn triển khai và địa phương áp dụng. Khi có cơ sở đồng bộ và minh bạch như vậy, việc phân bổ nguồn lực, đề xuất ngân sách từ Trung ương về địa phương mới khả thi và bền vững.
GS.TS Lê Mạnh Hùng cũng nhắc lại kinh nghiệm từ năm 2005 khi nhóm nghiên cứu đã xây dựng phần mềm đánh giá rủi ro lũ quét tại Vĩnh Long, nhưng sau cùng lại “đắp chiếu” vì thiếu đầu mối triển khai. “Chúng ta phải làm bài bản như xây một ngôi nhà, có móng, có tầng, có mái, thì mới tránh được tình trạng manh mún, chắp vá như trước đây”, ông nhấn mạnh.
11h07
Theo bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong bối cảnh chuyển đổi số đang lan tỏa mạnh mẽ, ngành thủy lợi là một trong những lĩnh vực đi đầu và chủ động nhất trong tiến trình hiện đại hóa.

Theo bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thách thức lớn hiện nay là vẫn thiếu tiêu chuẩn thống nhất trong chuyển đổi số ngành thủy lợi.
“Tuy vậy, để quá trình này thực sự hiệu quả, các địa phương cần cung cấp báo cáo cụ thể, kèm số liệu thực tế phản ánh tình hình triển khai tại cơ sở, nhằm giúp cơ quan quản lý có căn cứ điều chỉnh chính sách phù hợp”, bà Thu nhất trí với đa số các chuyên gia tại diễn đàn.
Ngày 13/10 vừa qua, Chính phủ đã công bố Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả KHCN và chuyển đổi số đối với phát triển kinh tế - xã hội, gồm 46 nhóm tiêu chí, trong đó ngành thủy lợi có 3 nhóm tiêu chí riêng. Đây được xem là nhiệm vụ và cơ hội quan trọng để các cơ quan, đơn vị trong ngành đề xuất các bộ giải pháp cụ thể phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, một thách thức lớn hiện nay là thiếu tiêu chuẩn thống nhất, khiến dữ liệu thu thập được chưa phát huy hết giá trị phục vụ cho công tác quản lý và điều hành. Vì vậy, bà Thu đề xuất xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia cho ngành thủy lợi, đồng thời kiến nghị Cục Chuyển đổi số và Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp xây dựng, đồng bộ hệ thống dữ liệu toàn quốc, bảo đảm tính thống nhất, liên thông và khai thác hiệu quả nguồn “tài nguyên số” này.
10h55
Thiết bị không đồng bộ gây trở ngại cho chuyển đổi số ngành thủy lợi
Ông Nguyễn Thanh Tùng (ảnh), Chi Cục trưởng Chi cục Thủy lợi Cà Mau, cho biết, để ứng dụng chuyển đổi số, tỉnh đã thành lập Trung tâm Quan trắc, tích hợp dữ liệu từ các lĩnh vực thủy lợi và thủy sản, hướng tới xây dựng hệ thống xử lý và sử dụng dữ liệu dùng chung toàn ngành. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, địa phương gặp nhiều khó khăn do sự không tương thích giữa các thiết bị.

“Một số thiết bị do các tổ chức quốc tế tài trợ sau một thời gian sử dụng đã xuống cấp, hư hỏng đầu dò, buộc phải nhập khẩu linh kiện thay thế với chi phí bảo trì cao. Ngoài ra, sự khác biệt giữa thiết bị trong nước và quốc tế khiến việc đồng bộ, tích hợp dữ liệu gặp nhiều trở ngại. Để hệ thống vận hành ổn định, nhiều hạng mục buộc phải thay thế hoàn toàn bằng thiết bị ngoại, làm tăng đáng kể chi phí đầu tư. Dữ liệu từ các trạm quan trắc này truyền về máy chủ đặt ở nước ngoài, gây khó khăn cho công tác quản lý, khai thác và chủ động điều hành tại địa phương”, ông Tùng phân tích.
Về ứng phó thiên tai, Cà Mau đã bước đầu xây dựng bản đồ rủi ro phòng chống thiên tai, gồm bốn loại hình: bão, áp thấp, triều cường và nước dâng. Khi có tình huống xảy ra, hệ thống sẽ tự động hiển thị tuyến ảnh hưởng, địa hình, số dân, vật liệu và nguồn lực huy động, giúp lãnh đạo tỉnh có thể chủ động chỉ đạo, ứng phó kịp thời.

Cà Mau đã bước đầu xây dựng bản đồ rủi ro phòng chống thiên tai. Ảnh minh họa.
Hiện địa phương đang triển khai kế hoạch hiện đại hóa hệ thống công trình thủy lợi, đồng thời đề xuất đề tài nghiên cứu của Sở Khoa học và Công nghệ nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong vận hành. Tuy nhiên, do hạ tầng cũ kỹ, xuống cấp, việc tích hợp hệ thống SCADA vẫn chưa khả thi.
Từ thực tế đó, lãnh đạo Chi cục Thủy lợi Cà Mau kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường quan tâm hỗ trợ nâng cấp các cống, âu thuyền của tỉnh, đồng thời đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật để tích hợp và vận hành hiệu quả hệ thống điều khiển vận hành tự động (SCADA). Đây là điều kiện quan trọng giúp tỉnh Cà Mau vừa cải thiện năng lực quản lý nguồn nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, phù hợp với mục tiêu của Đề án phòng chống sạt lở, sụt lún vùng ĐBSCL.
10h45
Cần Thơ kiến nghị nhận hỗ trợ thiết bị và kinh phí chuyển đổi số thủy lợi
Tại Diễn đàn, ông Mai Hồng Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi TP. Cần Thơ cho biết, sau khi sáp nhập các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng, khu vực này có hệ thống công trình thủy lợi khá lớn, đa dạng về loại hình, từ hồ chứa, kênh mương đến cống, trạm bơm và hệ thống tiêu thoát nước đô thị. Tuy nhiên, nhìn chung việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố còn nhỏ lẻ, thiếu tính đồng bộ.
Hiện Cần Thơ có một số dự án nổi bật như dự án chống ngập đô thị trung tâm, bước đầu đã phát huy hiệu quả trong kiểm soát ngập úng, điều tiết dòng chảy. Song theo ông Tâm, thiết bị phục vụ chuyển đổi số trong công tác vận hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.

Để chuyển đổi số hệ thống thủy lợi phát huy hiệu quả cần chú trọng đào tạo nhân lực. Ảnh minh họa.
Ông kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt hàng, giao cho các viện, trường và doanh nghiệp nghiên cứu, chế tạo thiết bị phù hợp, đồng thời đề nghị Bộ xem xét cơ chế để các địa phương tranh thủ nhiều nguồn kinh phí hơn cho triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực thủy lợi, đặc biệt là thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển nông nghiệp, nông thôn và quản lý tài nguyên nước bền vững.
Trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhấn mạnh, việc đầu tư thiết bị và công nghệ chuyển đổi số cần có lộ trình rõ ràng, không thể thực hiện ngay trong một sớm một chiều, nhưng chắc chắn sẽ được Cục và Bộ quan tâm trong thời gian tới. Ông khẳng định, nguồn kinh phí sẽ không phải trở ngại lớn, bởi ngoài ngân sách trung ương còn có thể huy động nguồn lực từ địa phương, triển khai từng bước, phù hợp điều kiện thực tế.
Theo ông Khanh, vấn đề quan trọng nhất là xây dựng “đầu bài” phù hợp - tức xác định đúng nhu cầu thực tiễn để công nghệ đưa vào ứng dụng phải hiệu quả và khả thi. Ông đề nghị các chi cục thủy lợi căn cứ quy mô, điều kiện từng địa phương để xây dựng đề bài cụ thể về ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong vận hành công trình, giám sát nguồn nước, kiểm soát hạn - mặn…
“Trung ương sẽ làm khung tổng thể, còn địa phương cần cụ thể hóa, triển khai theo đúng thực tế hạ tầng của mình. Nhiều nơi hiện nay điện khí hóa còn chưa hoàn thiện, nên chuyển đổi số phải phù hợp, không nên quá tham vọng, mà cần có lộ trình, xác định rõ việc nào làm trước, việc nào làm sau để đảm bảo tính bền vững”, ông Khanh nói.
10h25
Đề xuất lập bộ khung chuẩn chung quản lý, vận hành trên toàn quốc
Tham gia thảo luận tại Diễn đàn, ông Lê Xuân Thái (ảnh), Chi Cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Khánh Hòa, bày tỏ sự đánh giá cao đối với các nội dung trình bày tại sự kiện.

Chia sẻ về thực trạng tại địa phương, ông Thái cho biết: Tỉnh Khánh Hòa đã từng triển khai hệ thống điều khiển vận hành tự động (SCADA) tại một số hồ chứa lớn từ năm 2010-2012. Tuy nhiên, chỉ sau vài năm, nhiều thiết bị hư hỏng, hệ thống gần như không còn hoạt động, nguyên nhân chủ yếu do thiếu nguồn kinh phí bảo trì ổn định và định mức chi rõ ràng cho loại hình thiết bị này. Ông cho rằng: “Chúng ta đều nói đơn vị quản lý phải bố trí kinh phí vận hành, nhưng thực tế thì chi bao nhiêu, dựa theo đâu, hiện vẫn chưa có định mức cụ thể như các công trình thủy lợi truyền thống”.
Từ thực tế đó, Chi Cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Khánh Hòa kiến nghị Ban Tổ chức và các cơ quan chuyên môn sớm xây dựng định mức bảo trì riêng cho các hệ thống điều khiển tự động, đồng thời ban hành quy trình mẫu về lập kế hoạch bảo trì, bố trí kinh phí hằng năm, nhằm giúp địa phương có căn cứ pháp lý và tài chính để duy trì hiệu quả hệ thống.

Tỉnh Khánh Hòa đã từng triển khai hệ thống điều khiển vận hành tự động (SCADA) tại một số hồ chứa lớn từ năm 2010-2012 (Trong ảnh minh họa: Hồ Suối Dầu ở Khánh Hòa).
Một khó khăn khác cũng được ông Thái nêu ra là tình trạng thiếu đồng bộ trong thiết kế phần mềm, thiết bị khi hợp nhất các tỉnh hoặc triển khai nhiều gói đầu tư. “Hiện nay, chỉ riêng Khánh Hòa đã có hơn 10 ứng dụng khác nhau trên màn hình giám sát, mỗi hệ thống dùng một phần mềm riêng, gây rối cho công tác vận hành, quản lý”, ông nói.
Ông Thái đề xuất cần thiết lập bộ khung chuẩn chung toàn quốc, để các đơn vị đầu tư, tư vấn, thi công cùng tuân thủ, từ đó tạo thuận lợi trong khai thác, quản lý nhà nước, và giảm gánh nặng cho địa phương.
10h10
Yêu cầu địa phương cập nhật thông tin, rà soát công trình thủy lợi
Ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho biết: Trong giai đoạn hiện nay, việc khai thác, vận hành công trình thủy lợi vẫn gặp nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ triệt để, thực tế ứng dụng khoa học - công nghệ trong thực tiễn vẫn chưa được nhiều.

Ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, thảo luận về quản lý vận hành hệ thống thủy lợi và quản lý hồ chứa thủy lợi.
Theo Phó Cục trưởng Nguyễn Hồng Khanh, Cục hiện đảm nhiệm hai mảng chính: quản lý vận hành hệ thống thủy lợi và quản lý hồ chứa thủy lợi. Thứ nhất, hệ thống thông tin thủy lợi Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý, tích hợp dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch đầu tư, hoạt động tưới tiêu, kinh tế nước sạch nông thôn và các công trình thủy lợi lớn... Cục yêu cầu các địa phương chủ động rà soát, cập nhật thông tin thường xuyên để phục vụ hiệu quả cho công tác điều hành.
Thứ hai, về tình hình nguồn nước, hạn hán và xâm nhập mặn, Cục luôn phối hợp chặt chẽ với địa phương để hỗ trợ xây dựng kế hoạch cấp nước, sử dụng nước hợp lý. Thông tin được cập nhật liên tục, cũng như phối hợp với Cục Trồng trọt và BVTV để phục vụ chỉ đạo sản xuất.
Ông Khanh nhấn mạnh, trong vài năm tới, hệ thống này sẽ tiếp tục được hoàn thiện, hướng tới vận hành đồng bộ. Theo đó, ông cũng đề nghị các Chi cục Thủy lợi địa phương báo cáo tiến độ triển khai để kịp thời tháo gỡ khó khăn, đảm bảo hệ thống hoạt động hiệu quả và phục vụ tốt cho người dân.
10h00
Từ số hóa dữ liệu đến vận hành thông minh trong ngành thủy lợi Việt Nam
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, lĩnh vực thủy lợi đã có những bước đi đầu tiên trong quá trình chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ từ vài năm trước. Nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng với tinh thần say mê, trách nhiệm và sáng tạo của đội ngũ cán bộ chuyên môn, đến nay ngành đã đạt được những kết quả ban đầu tích cực trong việc số hóa dữ liệu, giám sát và vận hành hệ thống công trình thủy lợi.

Ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi,
Theo ông Khanh, thực hiện chỉ đạo của Trung ương và kế hoạch của Bộ, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đang tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, khai thác công trình từ Trung ương đến địa phương, hướng tới xây dựng hệ thống vận hành hiện đại, minh bạch và hiệu quả hơn.
Cục dự kiến, từ nay đến năm 2026 sẽ tiến hành đánh giá tổng thể thực trạng ứng dụng khoa học - công nghệ trong toàn ngành, làm cơ sở để xây dựng các giải pháp, mô hình và chính sách phát triển phù hợp. Bên cạnh đó, các diễn đàn khoa học và công nghệ như hôm nay sẽ được tổ chức thường xuyên hơn, duy trì tính liên tục trong trao đổi chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực thủy lợi ngày càng đi vào chiều sâu.
Về phía đơn vị triển khai, ông Nguyễn Công Xưng, đại diện Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận, cho biết, nhờ được Bộ Nông nghiệp và Môi trường đầu tư đồng bộ hệ thống thủy lợi Ninh Thuận cũ, bao gồm hợp phần hồ Sông Cái và các tuyến kênh dẫn, hệ thống hiện nay đã cơ bản giải quyết được bài toán thiếu nước lâu năm cho khu vực phía Bắc tỉnh Ninh Thuận - nơi từng được xem là vùng đất khô hạn, “thiếu mưa, thừa nắng” với hơn 6.600 ha đất không thể sản xuất. Đến nay, diện tích này đã được cấp nước ổn định, có thể sản xuất nông nghiệp bền vững quanh năm.

Ông Nguyễn Công Xưng, đại diện Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Ninh Thuận.
Trên nền tảng hạ tầng thủy lợi được đầu tư bài bản, công ty đã triển khai hệ thống quản lý, vận hành thông minh để hỗ trợ ra quyết định kịp thời trong công tác phòng, chống thiên tai và điều tiết nước.
Đặc biệt, tại hồ Sông Cái, trong mùa mưa vừa qua, dù hạ du có thời điểm mực nước dâng lên mức báo động cấp 3, nhưng nhờ hệ thống điều hành thông minh, mực nước hạ du vẫn được kiểm soát, không vượt quá báo động cấp 1. Hồ Sông Cái đã phát huy hiệu quả rõ rệt trong việc cắt lũ, điều tiết dòng chảy và bảo đảm an toàn cho vùng hạ du.

Hệ thống thủy lợi Ninh Thuận cũ đã cơ bản giải quyết được bài toán thiếu nước lâu năm cho khu vực phía Bắc tỉnh Ninh Thuận.
Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát, dự báo và điều tiết nguồn nước đang giúp Ninh Thuận không chỉ chủ động ứng phó với biến động thời tiết cực đoan mà còn tối ưu hóa hiệu quả khai thác công trình, tiết kiệm nhân lực và chi phí vận hành.
9h45
Hoàn chỉnh hệ thống SCADA trên tất cả các công trình thủy lợi
Từ năm 2005 đến nay, ngành thủy lợi TP.HCM bước vào giai đoạn ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ hiện đại, nổi bật là việc xây dựng và mở rộng hệ thống điều khiển vận hành tự động (SCADA). Theo ông Nguyễn Văn Đam (ảnh), Giám đốc Công ty TNHH MTV Quản lý Khai thác Dịch vụ Thủy lợi TP.HCM (IMC), hệ thống này cho phép giám sát và điều hành tưới tiêu trực quan, chính xác hơn, chuyển từ phương thức quản lý định tính sang định lượng rõ ràng, tối ưu hóa nguồn nước và tiết kiệm chi phí.

Song song đó, đơn vị phát triển cơ sở dữ liệu công trình thủy lợi và các chương trình phần mềm chuyên dùng trên nền tảng dữ liệu số, IoT và SCADA. Không chỉ đảm bảo việc thu thập, lưu trữ thông tin đầy đủ, chính xác, hệ thống còn kết nối trực tiếp với cơ sở dữ liệu dùng chung của thành phố và các tỉnh, tạo thành mạng lưới dữ liệu quản lý nước liên thông.
“Nhờ các công cụ điều khiển tự động, thời gian vận hành được rút ngắn, hiệu suất lao động tăng lên đáng kể. Các trạm quan trắc SCADA cập nhật dữ liệu mực nước, triều cường liên tục, giúp đơn vị quản lý chủ động xây dựng kịch bản vận hành, cảnh báo sớm, hạn chế tối đa thiệt hại về người và tài sản”, ông Nguyễn Văn Đam đánh giá.
Thời gian tới, Công ty sẽ tham mưu đầu tư hoàn chỉnh hệ thống SCADA trên tất cả các công trình thủy lợi theo chiều rộng và chiều sâu. Trọng tâm là xây dựng phần mềm quản lý vận hành tưới tối ưu trên hệ thống kênh Đông Củ Chi nhằm kiểm soát tối ưu hóa nguồn nước, nâng cao hiệu suất sử dụng, giá trị nguồn nước trong điều kiện ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Hệ thống SCADA cho phép giám sát liên tục các thông số quan trọng. Ảnh minh họa.
“Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu phát triển các phần mềm dự báo, mô phỏng vận hành công trình khi chịu tác động của triều, lũ, hạn, mặn; đẩy mạnh ứng dụng IoT và AI trong công tác quản lý, vận hành. Cơ sở dữ liệu công trình thủy lợi sẽ gắn với chương trình chuyển đổi số của thành phố, hướng tới mục tiêu xây dựng đô thị thông minh vào năm 2030”, Giám đốc Công ty IMC thông tin thêm.
Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, nhân viên vận hành hệ thống SCADA cũng được chú trọng nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghiệp 4.0.
Lãnh đạo IMC đề nghị các cơ quan Bộ, ngành và chính quyền thành phố tiếp tục quan tâm, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư cho chuyển đổi số và ứng dụng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi. Song song đó, cần có chiến lược khung về chuyển đổi số toàn ngành để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ và hiệu quả trong triển khai.
9h37
Ứng dụng AI và Big Data tự động hóa thu thập, chuẩn hóa dữ liệu nguồn nước
Tại Diễn đàn, PGS.TS. Triệu Ánh Ngọc (ảnh), đại diện Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi, chia sẻ về ứng dụng AI để tự động thu thập, chuẩn hóa dữ liệu nguồn nước.
Một trong những công cụ nổi bật được xây dựng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành, hoạt động theo mô hình “nền tảng phân tán - data mesh”, cho phép các đơn vị, địa phương và ngành liên quan kết nối, chia sẻ dữ liệu trong một cấu trúc linh hoạt, an toàn và có khả năng mở rộng.

Trên cơ sở đó, Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi ứng dụng cơ sở dữ liệu phân tán và công nghệ Big Data kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI/ML), giúp xử lý khối lượng lớn dữ liệu thủy văn - khí tượng từ nhiều nguồn khác nhau, đồng thời tự động hóa việc thu thập, chuẩn hóa, phân tích và dự báo nguồn nước. Mô-đun AI Gent với 5 cấp sử dụng, đóng vai trò như “trợ lý thông minh”, hỗ trợ người dùng trong việc truy xuất thông tin, giám sát biến động và đưa ra gợi ý kịch bản quản lý tối ưu.
Tuy nhiên, quá trình triển khai công cụ cũng đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là việc thu thập và tích hợp dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau còn gặp khó khăn, trong khi chất lượng dữ liệu chưa đồng nhất và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, rò rỉ thông tin.
Bên cạnh đó, năng lực chuyển đổi số và kỹ năng quản lý dữ liệu ở một số đơn vị còn hạn chế, khiến việc vận hành hệ thống chưa thật sự hiệu quả. Tình trạng dữ liệu cập nhật chậm hoặc quản lý thiếu chuẩn hóa có thể ảnh hưởng đến tính chính xác và độ tin cậy của toàn bộ hệ thống.

Năng lực chuyển đổi số và kỹ năng quản lý dữ liệu ở một số đơn vị còn hạn chế. Ảnh minh họa.
“Dù vậy, công cụ này được kỳ vọng sẽ mở ra những cơ hội đột phá cho ngành tài nguyên nước Việt Nam. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn giúp tăng cường khả năng thu thập, giám sát, phân tích dữ liệu theo thời gian thực, đồng thời nâng cao năng lực dự báo và hỗ trợ ra quyết định trong quản lý nguồn nước.
Hệ thống cho phép chia sẻ và khai thác dữ liệu linh hoạt giữa các ngành, các địa phương thông qua nền tảng mở và công nghệ blockchain, tạo tiền đề cho hợp tác liên ngành sâu rộng. Đây là bước tiến quan trọng góp phần thúc đẩy minh bạch, nâng cao nhận thức cộng đồng và hỗ trợ hoạch định chính sách quản lý tài nguyên nước hiệu quả, bền vững hơn trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia”, PGS.TS. Ngọc cho biết.
9h25
Ứng dụng AIoT vào giám sát nguồn nước và xâm nhập mặn
Tại Diễn đàn, bà Hồ Thị Ngọc Giàu (ảnh), đại diện Công ty Cổ phần RYNAN Technologies Vietnam đã chia sẻ tham luận với chủ đề “Mạng lưới giám sát nguồn nước, xâm nhập mặn và thời tiết thông minh phục vụ canh tác, thích ứng biến đổi khí hậu”.

Một trong những giải pháp nổi bật được RYNAN giới thiệu là hệ thống giám sát chất lượng nước thông minh ứng dụng công nghệ AIoT. Hệ thống này cho phép quan trắc tự động nhiều thông số môi trường như độ mặn, độ pH, độ kiềm, mực nước, độ đục, nồng độ oxy hòa tan, và các chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng nguồn nước.
Dữ liệu được cập nhật liên tục theo thời gian thực, trung bình mỗi 15 phút/lần, truyền về Trung tâm dữ liệu RYNAN để xử lý, làm sạch và phân tích. Sau đó, kết quả được đồng bộ và trực quan hóa thông qua phần mềm quản lý trung tâm và ứng dụng di động RYNAN Mekong, giúp người dân, cán bộ kỹ thuật và cơ quan quản lý có thể theo dõi tình hình nước một cách dễ dàng, minh bạch và kịp thời.
Các thiết bị được thiết kế nhỏ gọn, linh hoạt, chống chịu điều kiện khắc nghiệt, có thể lắp đặt tại nhiều vị trí như bờ sông, cầu cống, kênh dẫn, mà không cần xây dựng nhà trạm kiên cố, nhờ đó giảm chi phí đầu tư và thời gian triển khai. Đặc biệt, mỗi thiết bị đều được tích hợp chip xử lý AI, cho phép phân tích dữ liệu ngay tại hiện trường, giúp hệ thống tự động phát hiện bất thường và gửi cảnh báo tức thì khi độ mặn, pH hay mực nước vượt ngưỡng thiết lập.
Hướng tới hệ sinh thái số phục vụ quản lý nước và canh tác
Trình bày tại diễn đàn, với mục tiêu ứng dụng công nghệ số phục vụ quản lý nước hiệu quả và sản xuất nông nghiệp bền vững, Công ty Cổ phần RYNAN Technologies Vietnam đã xây dựng mạng lưới 126 trạm quan trắc tại các tỉnh vùng ĐBSCL. Thông qua hệ thống thu thập dữ liệu theo thời gian thực, đội ngũ kỹ thuật phát triển thuật toán nội suy độ mặn, giúp xác định chất lượng nước tại cả những khu vực chưa lắp đặt thiết bị. Bản đồ nội suy độ mặn được cập nhật liên tục, hỗ trợ cảnh báo và lập kế hoạch vận hành thủy lợi trong bối cảnh xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp.
Song song với đó, ứng dụng RYNAN Mekong được cung cấp miễn phí cho người dân và cán bộ kỹ thuật nhằm theo dõi trực tiếp các chỉ tiêu chất lượng nước và điều kiện canh tác. Hiện đã có hơn 20.000 tài khoản đang hoạt động, với khoảng 3.000 lượt truy cập mỗi ngày. Dữ liệu thu thập giúp bà con chủ động hơn trong mùa vụ, hỗ trợ cơ quan quản lý xây dựng kế hoạch vận hành thủy lợi theo thời gian thực và theo vùng.

Trên ứng dụng RYNAN Mekong, hiện đã có hơn 20.000 tài khoản đang hoạt động, với khoảng 3.000 lượt truy cập mỗi ngày.
Bên cạnh giám sát nguồn nước, RYNAN cũng phát triển trạm thời tiết thông minh theo dõi nhiều chỉ số như nhiệt độ, độ ẩm, mưa, gió, cường độ ánh sáng… Hệ thống được tích hợp cảm biến tính toán các chỉ số phục vụ quản lý tưới tiêu, bón phân, đề xuất thời điểm thu hoạch. Đây là nền tảng cho mô hình nông nghiệp chính xác, giúp người canh tác đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu khoa học. Hơn 25 trạm loại này đã triển khai tại Thái Lan, ứng dụng thành công trong sản xuất cao su và sầu riêng.
Tại Việt Nam, RYNAN đang phối hợp cùng địa phương để mở rộng mô hình tương tự, phục vụ nhiều mục tiêu đồng thời như giảm rủi ro mùa vụ, nâng cao năng suất và thích ứng với khí hậu cực đoan.
Toàn bộ giải pháp trên được tích hợp trong hệ sinh thái nền tảng nông nghiệp số VDAPES. Hệ thống này đồng bộ dữ liệu từ thiết bị AIoT, ảnh viễn thám và phần mềm trung tâm quản lý, hỗ trợ cả nông dân và chính quyền địa phương. Thí điểm tại Đồng Tháp cho thấy hiệu quả tích cực: hơn 4.000 cán bộ đã được tập huấn sử dụng hệ thống, giúp cải thiện quy trình báo cáo từ cấp xã lên tỉnh. Tính đến nay, hơn 500 thiết bị thuộc hệ sinh thái đã được lắp đặt tại Việt Nam và quốc tế.
9h18
AI tối ưu hóa độ chính xác trong dự báo dòng chảy và xâm nhập mặn
Theo TS Lê Ngọc Hiếu (ảnh), Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam: “Việc đưa thông tin cảnh báo lên các nền tảng số (app, web) từ năm 2020 là một bước tiến tích cực, góp phần giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp thông qua việc bố trí mùa vụ hợp lý và cung cấp thông tin chỉ đạo điều hành”.

TS Lê Ngọc Hiếu chia sẻ, dự báo theo mùa được xem là yếu tố then chốt, giúp xác định được thời gian xuất hiện mặn, xuất hiện nước ngọt. Vào các tháng 2-3, khi chân triều đạt đỉnh, tình trạng xâm nhập mặn khiến nguồn nước không thể sử dụng được.
Hiện nay, nhờ ứng dụng cơ chế truyền tin hiện đại qua app, hệ thống của Viện đã phục vụ cho chính quyền hai cấp trong việc tra cứu rủi ro mặn, ranh giới xâm nhập mặn theo thời gian thực, cập nhật như vị trí và quy mô các công trình thủy lợi tại vùng ĐBSCL.

Ảnh chụp dự báo đợt xâm nhập mặn gây ảnh hưởng lớn tại ĐBSCL hồi tháng 3-4/2024.
Hướng tới nâng cao hơn nữa độ chính xác của dự báo, nhóm nghiên cứu cũng đã phát triển mô hình AI cho vùng thượng lưu. Mô hình cho ra kết quả trong vài giây, cho phép chạy nhiều kịch bản vận hành nhanh chóng. Chỉ cần các dữ liệu đầu vào như lượng mưa và dòng chảy, mô hình có thể tự học mối quan hệ nhân - quả và thích ứng thông minh với dữ liệu mới.
Ông khẳng định, mục tiêu dài hạn là xây dựng mô hình dự báo phù hợp với đặc thù ngập nước của ĐBSCL, đáp ứng yêu cầu chủ động thích ứng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Việc ứng dụng kỹ thuật học sâu (deep learning) để nâng cao độ chính xác của dự báo lũ thượng nguồn và xâm nhập mặn ngắn hạn không chỉ mang giá trị khoa học và thực tiễn cao, mà còn phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57.
9h10
Xây dựng hệ sinh thái số thủy lợi ‘đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung’
Chia sẻ tại Diễn đàn “Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện theo Nghị quyết 57”, ông Nguyễn Mạnh Hùng (ảnh), Trưởng phòng Quản lý vận hành và tưới tiêu, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, nhấn mạnh: chuyển đổi số là động lực then chốt giúp ngành thủy lợi phát triển bền vững, an toàn và thích ứng với biến động khí hậu.

Theo ông Hùng, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thủy lợi đã giúp hình thành các bản tin dự báo nguồn nước, chất lượng nước định kỳ, hỗ trợ địa phương chủ động kế hoạch tưới tiêu, giảm rủi ro hạn hán, xâm nhập mặn, nâng cao hiệu quả sử dụng nước. Đây cũng là tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW, coi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá quan trọng hàng đầu để nâng cao năng lực quản trị và phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nhiều công trình thủy lợi vẫn vận hành theo phương thức thủ công, dữ liệu còn phân tán, thiếu đồng bộ và chưa được kết nối thời gian thực. Để khắc phục hạn chế này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quyết định số 3978/QĐ-BNNMT ngày 26/9/2025, phê duyệt kế hoạch phát triển Hệ thống thông tin thủy lợi Việt Nam (VN-WIS) – nền tảng dữ liệu dùng chung, số hóa thống nhất, liên thông toàn ngành.
VN-WIS tích hợp công nghệ hiện đại như AI, IoT, Big Data, GIS và Digital Twin, hướng tới xây dựng hệ sinh thái số thủy lợi với tiêu chí “đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung”. Hệ thống này cho phép cập nhật dữ liệu khí tượng, mưa, triều, mặn, dung tích hồ chứa, đồng thời vận hành mô hình dự báo, hỗ trợ ra quyết định và giám sát thời gian thực.
Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng thúc đẩy hợp tác công - tư, huy động doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế như FAO, WB, JICA tham gia nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ năng số cho đội ngũ vận hành, hướng tới một ngành thủy lợi hiện đại, minh bạch và bền vững trong kỷ nguyên số.
9h00
Khoa học công nghệ và chuyển đổi số - chìa khóa hiện đại hóa ngành thủy lợi
Phát biểu tại Diễn đàn “Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện theo Nghị quyết 57”, ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, tài nguyên nước khan hiếm, thiên tai khó lường và nhu cầu sử dụng nước không ngừng tăng cao, việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, khai thác công trình thủy lợi là yêu cầu cấp thiết, không thể chậm trễ và cũng là xu thế tất yếu.

Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường Vũ Minh Việt khẳng định, việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, khai thác công trình thủy lợi là yêu cầu cấp thiết.
Theo nhà báo Vũ Minh Việt, phát triển thủy lợi hiện đại, linh hoạt, bảo đảm cấp thoát nước cho dân sinh và sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm an ninh nguồn nước, lợi ích quốc gia và quốc phòng là mục tiêu xuyên suốt của Chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, khoa học, công nghệ và chuyển đổi số chính là “chìa khóa đột phá” giúp nâng cao năng lực dự báo, điều hành, giám sát và cung ứng dịch vụ thủy lợi một cách thông minh, kịp thời và hiệu quả.
Lãnh đạo Báo Nông nghiệp và Môi trường cho biết, thời gian qua ngành thủy lợi đã có nhiều bước tiến đáng ghi nhận trong đổi mới sáng tạo. Các hệ thống giám sát, điều hành được tích hợp cảm biến, kết nối dữ liệu thời gian thực giúp nâng cao hiệu quả quản lý, tiết kiệm chi phí và nhân lực. Mô hình mô phỏng, dự báo thủy văn - thủy lực đã được ứng dụng để điều tiết nguồn nước, cảnh báo sớm xâm nhập mặn tại các lưu vực sông lớn như Cửu Long, Vu Gia - Thu Bồn.
Đồng thời, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn đang được thử nghiệm để tự động thu thập, phân tích và chuẩn hóa dữ liệu nguồn nước, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu liên ngành, liên thông và nền tảng cung cấp dịch vụ thủy lợi thông minh cho người dân, doanh nghiệp.

Thời gian qua, ngành thủy lợi đã có nhiều bước tiến đáng ghi nhận trong đổi mới sáng tạo.
Từ thực tiễn đó, ông Vũ Minh Việt đề nghị Diễn đàn tập trung thảo luận các nhóm vấn đề trọng tâm như hoàn thiện thể chế, chính sách; xây dựng hạ tầng đồng bộ; phát triển mô hình dự báo thông minh; đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường hợp tác quốc tế và hợp tác công - tư. Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường kỳ vọng những sáng kiến, giải pháp được chia sẻ tại Diễn đàn sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, đưa ngành thủy lợi Việt Nam phát triển theo hướng thông minh, hiệu quả và bền vững.