Tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững” sáng 16/10, các chuyên gia và đơn vị quản lý cho rằng để phát triển nông nghiệp bền vững, cần nhìn nhận nước không chỉ là dịch vụ công ích mà là yếu tố của nền kinh tế, gắn với cả quá trình đầu tư, vận hành, phân phối và sử dụng hiệu quả.
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, cho biết kết quả khảo sát và đánh giá thực tế tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cho thấy công tác cấp nước sạch nông thôn còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở các khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát nguồn nước.

Theo ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Theo ông Mạnh, việc quản lý quy hoạch cấp nước ở nhiều địa phương chưa đồng bộ; một số khu vực đô thị hóa nhanh khiến hệ thống cấp nước không theo kịp nhu cầu. Công tác giám sát chất lượng nước, theo dõi khai thác chưa được thực hiện đầy đủ; nhiều địa phương chưa có phương án tổng thể cho cấp phép khai thác, gây khó khăn trong điều hành, nhất là khi hạn hán và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp.
Thực tế cho thấy, tại một số vùng như Cà Mau, người dân vẫn phải sử dụng nước mưa hoặc nước trữ tạm thời. Một số tỉnh như Bến Tre, Cà Mau, Hậu Giang đã đầu tư xây dựng hồ chứa nước phân tán, song quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Ông Mạnh cho biết, giai đoạn 2015-2016, hạn hán và xâm nhập mặn đã khiến hơn 200.000 hộ dân ĐBSCL thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nhờ chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó, đến các đợt hạn mặn 2019-2020 và 2023-2024, số hộ thiếu nước đã giảm còn vài chục nghìn, minh chứng cho hiệu quả của công tác dự báo và phòng ngừa từ xa.
Dù vậy, ông cho rằng lĩnh vực cấp nước nông thôn vẫn khó thu hút doanh nghiệp đầu tư do giá nước thấp, chi phí hạ tầng lớn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. “Đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế chứ không chỉ là dịch vụ công ích”, ông nhấn mạnh. Theo đó, phát triển kinh tế nước cần gắn với tư duy quản lý hiện đại, chuyển từ hành chính thụ động sang cơ chế thị trường, với nguyên tắc tính đúng, tính đủ giá nước như biểu giá điện.

Lĩnh vực cấp nước nông thôn vẫn khó thu hút doanh nghiệp đầu tư do giá nước thấp, chi phí hạ tầng lớn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Ông Mạnh đề xuất bổ sung các công cụ kinh tế và chế tài môi trường như thu phí xả thải, thuế tài nguyên nước; đồng thời ứng dụng công nghệ trong giám sát khai thác, nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nước, yếu tố sống còn trong thích ứng biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL.
Thủy lợi đa mục tiêu - nền tảng bảo đảm nguồn nước và tài chính bền vững
Cùng bàn về vấn đề này, ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Công ty Khai thác công trình thủy lợi Miền Nam, cho rằng muốn giải quyết tận gốc bài toán nước sạch nông thôn, phải bắt đầu từ quản lý nguồn nước đầu vào - hệ thống công trình thủy lợi.
Đơn vị hiện được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao quản lý hồ Dầu Tiếng - Phước Hòa cùng 5 công trình thủy lợi quy mô lớn khác tại khu vực ĐBSCL. Đây là những công trình then chốt trong việc điều tiết, kiểm soát nguồn nước, ngăn mặn, giữ ngọt, phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt cho hàng triệu người dân.

Ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Công ty Khai thác công trình thủy lợi Miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Theo ông Việt Anh, ĐBSCL thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán, xâm nhập mặn; các năm 2015–2016, 2019–2020 và 2023–2024 được xem là những giai đoạn hạn mặn nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ. Để ứng phó, các hồ chứa hiện được vận hành theo cảnh báo và dự báo nguồn nước chi tiết, được cập nhật hàng tháng, hàng mùa, thậm chí hàng tuần.
Tuy nhiên, ông cho rằng nếu không tiếp tục đầu tư, nâng cấp đồng bộ hệ thống công trình thủy lợi, rất khó kiểm soát hiệu quả tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn trong tương lai. Một trong những hướng đi quan trọng là hiện đại hóa công trình thủy lợi đa mục tiêu, vừa bảo đảm cấp nước, vừa khai thác thêm nguồn thu kinh tế như điện mặt trời, du lịch sinh thái, dịch vụ lòng hồ - nhằm tận dụng tối đa tiềm năng, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Bộ Tài chính quy định mức giá dịch vụ thủy lợi (cấp nước thô) cho các hệ thống lớn ở mức khoảng 900 đồng/m³, áp dụng cho các đơn vị khai thác, cấp nước sinh hoạt đô thị và khu công nghiệp. Theo Nghị định 96 và dự thảo sửa đổi sắp tới, mức giá này có thể được điều chỉnh lên 1.100-1.300 đồng/m³, tạo nguồn thu ổn định hơn cho vận hành và bảo dưỡng công trình.
Bên cạnh đó, ông Việt Anh cho biết một số địa phương Đồng bằng sông Hồng đã thí điểm thu phí tiêu nước đối với khu công nghiệp, tạo thêm nguồn lực cho duy tu, quản lý công trình. Các hồ chứa có điều kiện cũng có thể đề xuất Bộ cho phép khai thác điện mặt trời, vừa tăng nguồn thu, vừa góp phần giảm phát thải.
"Việc khai thác hiệu quả các nguồn thu tiềm năng này, kết hợp với đầu tư hiện đại hóa hệ thống, sẽ giúp ngành thủy lợi nâng cao năng lực điều tiết, bảo đảm an toàn công trình và phục vụ tốt hơn đời sống người dân vùng ĐBSCL trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt", ông Việt Anh nhấn mạnh.