Sau khi thực hiện sáp nhập, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang trở thành cơ quan đầu mối quản lý toàn diện lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn trên địa bàn tỉnh. Hiện toàn tỉnh có 238 công trình cấp nước tập trung (CNTT), cung cấp cho khoảng 665.160 hộ dân, được vận hành qua ba mô hình: Trung tâm Nước sạch, doanh nghiệp và hợp tác xã. Trong đó, riêng Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường) đang trực tiếp quản lý 96 công trình, phục vụ hơn 155.000 hộ dân.
Tính đến nay, tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn quốc gia tại An Giang là 80,96%, riêng tỷ lệ sử dụng từ các công trình cấp nước tập trung đạt khoảng 70,15%. Đây là con số tích cực, song vẫn còn không ít rào cản khiến việc phát triển mạng lưới cấp nước chưa đạt được sự bền vững cần thiết.
Tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững”, ông Đặng Duy Quang, đại diện Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (VSMTNT) tỉnh An Giang đã chia sẻ nhiều vướng mắc thực tiễn. Theo ông, khó khăn lớn hiện nay đến từ sự chưa ổn định trong tổ chức bộ máy địa phương và sự thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ giải phóng mặt bằng, khiến nhiều công trình thi công bị kéo dài hoặc đình trệ.

Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Bên cạnh đó, thủ tục xin cấp phép khoan và khai thác nước ngầm vẫn rất phức tạp, dù nhu cầu nước sinh hoạt trong dân là cấp bách. Việc sáp nhập địa giới hành chính khiến công tác quản lý phân tán, thiếu thống nhất, trong khi cấp xã - đơn vị gần dân nhất, lại thiếu cán bộ chuyên trách về nước sạch, hầu hết kiêm nhiệm nên khó đảm bảo hiệu quả.
Nhiều công trình cũ, đặc biệt tại khu vực từng thuộc tỉnh An Giang trước đây, đã xuống cấp nghiêm trọng, hết công suất thiết kế nhưng chưa được đầu tư nâng cấp. Đáng nói là, ở một số địa phương, lĩnh vực nước sạch vẫn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới tỷ lệ hộ dân được cấp nước giảm sút theo thời gian, một thực trạng đáng lo ngại trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét.
Một điểm nghẽn khác cũng được ông Quang chỉ ra là Quyết định số 1348/QĐ-UBND ngày 3/10/2025 của tỉnh An Giang chưa bổ sung đầy đủ thủ tục hành chính liên quan đến cấp nước sạch nông thôn, dù Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố danh mục dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện. Sự thiếu cập nhật này làm chậm tiến trình cải cách hành chính, ảnh hưởng trực tiếp đến cả nhà quản lý lẫn người dân.
Trước thực trạng đó, Trung tâm Nước sạch và VSMTNT tỉnh An Giang đang tích cực rà soát lại hệ thống, cập nhật nhu cầu sử dụng nước trong quy hoạch phát triển, từng bước xây dựng mô hình cấp nước thích ứng biến đổi khí hậu, bảo đảm nguồn nước bền vững. Song song, đơn vị cũng từng bước ứng dụng công nghệ mới trong quản lý, đưa thiết bị thông minh vào vận hành để nâng cao hiệu quả giám sát, kiểm soát chất lượng nước và nâng cao độ tin cậy trong cung cấp dịch vụ.
Thống nhất khái niệm, cải cách thủ tục để gỡ điểm nghẽn thể chế
Cũng tại diễn đàn, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh: việc đánh giá hiệu quả cấp nước sạch nông thôn sẽ không chính xác nếu không thống nhất về khái niệm và phương pháp thống kê.
Theo ông, hiện cả nước có khoảng 18.000 công trình cấp nước nông thôn, nhưng hơn 6.000 trong số đó thực chất chỉ là mô hình dẫn nước đơn giản, phục vụ vài hộ dân, chủ yếu ở vùng núi. Những công trình này không đáp ứng đủ tiêu chuẩn của hệ thống cấp nước tập trung cả về chất lượng nước lẫn tính bền vững. Vì vậy, thống kê phải được làm chặt chẽ hơn để phản ánh đúng thực trạng, từ đó có định hướng đầu tư hiệu quả.

ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng nước sạch tại nông thôn vẫn gia tăng mạnh, nhưng mới chỉ 58% hộ dân sử dụng nước đạt chuẩn, trong đó chỉ 47% từ các công trình tập trung, việc củng cố hạ tầng và thể chế trở thành yêu cầu cấp thiết.
Về thể chế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang gấp rút hoàn thiện nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, trong đó làm rõ vai trò các bên tham gia: Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, cũng như quy định rõ cơ chế huy động vốn, quản lý tài sản, định mức đầu tư phù hợp điều kiện địa phương. Dự thảo nghị định kỳ vọng sẽ là cú hích mạnh mẽ cho xã hội hóa lĩnh vực này trong giai đoạn tới.
Đặc biệt, việc cải tiến thủ tục cấp phép khai thác nước cũng đang được đặt lên bàn rà soát. Ông Lương Văn Anh đề xuất gộp các bước thẩm định, cấp phép, phê duyệt kỹ thuật thành một quy trình liên thông, giảm thời gian chờ đợi, từ đó đẩy nhanh tiến độ đầu tư và đưa nước sạch đến với người dân sớm nhất có thể.
Bên cạnh nguồn lực từ Nhà nước, các địa phương được khuyến khích vận động người dân cùng tham gia đóng góp, nhất là tại các khu vực thuận lợi để xã hội hóa. Đối với vùng khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo, Chính phủ cần có chính sách đầu tư ưu tiên, đồng thời kết hợp truyền thông mạnh mẽ để người dân hiểu rằng nước sạch không chỉ là chuyện sức khỏe, mà còn là nền tảng cho cuộc sống văn minh, bền vững.
“Sự đồng hành giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân chính là chìa khóa để hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về nước sạch nông thôn đến năm 2030”, ông Lương Văn Anh nhấn mạnh.