Chiều 20/8, trong khuôn khổ Tuần lễ ngành Nước Việt Nam - Vietnam Water Week 2025 do Hội Cấp thoát nước Việt Nam tổ chức đã diễn ra Hội thảo “Ngành nước Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Thách thức và cơ hội”.
Đây là diễn đàn trao đổi quan trọng, kết nối các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp nhằm đánh giá thực trạng, định hướng chính sách của ngành nước Việt Nam, đồng thời chia sẻ những giải pháp và công nghệ đột phá, hướng tới cấp nước bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, đặc biệt ở những vùng trọng yếu như Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Hội thảo là diễn đàn trao đổi quan trọng, kết nối các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp chia sẻ những giải pháp và công nghệ đột phá cấp nước bền vững. Ảnh: Minh Khang.
Ngành nước trước những chuyển động lớn
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và biến đổi khí hậu toàn cầu, ngành Nước Việt Nam đang đứng trước những chuyển động mang tính bước ngoặt. Một mặt, nhu cầu nước sạch cho dân cư, công nghiệp và nông nghiệp ngày càng gia tăng. Mặt khác, sự cạn kiệt nguồn nước, suy thoái môi trường, tốc độ đô thị hóa nhanh và hạ tầng cấp thoát nước thiếu đồng bộ đang tạo ra những áp lực ngày càng lớn.

Ông Nguyễn Ngọc Điệp, Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, nhấn mạnh, nước sạch không chỉ là nhu cầu sinh hoạt cơ bản, mà còn là yếu tố sống còn gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và an sinh cộng đồng. Ảnh: Minh Khang.
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Ngọc Điệp, Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, nhấn mạnh rằng, nước sạch không chỉ là nhu cầu sinh hoạt cơ bản, mà còn là yếu tố sống còn gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và an sinh cộng đồng. Theo ông, trong bối cảnh mới, việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ dừng lại ở việc tháo gỡ những bất cập trước mắt, mà còn đóng vai trò như “nền móng” cho sự phát triển dài hạn.
“Một hành lang pháp lý minh bạch, hiện đại sẽ giúp ngành Nước củng cố an ninh nguồn nước quốc gia, nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời tạo động lực để các địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng chung tay vì mục tiêu phát triển bền vững”, ông Điệp khẳng định.
Từ thông điệp này, ông Điệp cũng nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết là tư duy lại mô hình cấp nước và quản lý tài nguyên nước, gắn với đổi mới chính sách và ứng dụng công nghệ hiện đại. Đây chính là cách để ngành Nước không chỉ thích ứng với biến đổi khí hậu và áp lực phát triển, mà còn biến thách thức thành cơ hội, vững bước trong kỷ nguyên mới.
Chuyển đổi số: Động lực để bứt phá
Nếu khung pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật được ví như “xương sống” của ngành Nước, thì chuyển đổi số chính là “động lực” tạo nên những bứt phá mới. Chỉ khi pháp lý ổn định, tiêu chuẩn rõ ràng và công nghệ hiện đại được áp dụng, ngành nước mới có thể vận hành hiệu quả, minh bạch và bền vững.
Tham luận về phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số, ông Trần Cường - Giám đốc Kỹ thuật Công nghệ, Sawaco nhận định, ngành nước toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ sang kỷ nguyên số, nơi trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), bản sao số (digital twin) và công nghệ dự báo sớm trở thành công cụ cốt lõi. Đây không chỉ là xu thế công nghệ, mà còn là giải pháp căn bản để quản lý rủi ro, tối ưu vận hành và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Tại TP.HCM, Công ty Sawaco đã triển khai nhiều mô hình tiên phong. Trung tâm vận hành thông minh SCADA hiện cho phép giám sát toàn diện mạng lưới cấp nước phục vụ hơn 11 triệu dân.
Các công cụ WaterGEMS kết hợp GIS hỗ trợ phân tích thủy lực, dự báo sự cố và tối ưu vận hành theo thời gian thực. Song song, Sawaco cũng số hóa dịch vụ khách hàng toàn diện, từ hóa đơn điện tử, thanh toán online đến hợp đồng số, đưa trải nghiệm người dùng tiến gần chuẩn mực của một đô thị thông minh.

200 gian hàng quy tụ tại Triển lãm quốc tế ngành cấp, thoát nước, công nghệ lọc nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường. Ảnh: T.Hoa.
Định hướng trong tương lai, Sawaco đặt mục tiêu tiến tới nước uống tại vòi, quản lý vận hành thời gian thực và xây dựng doanh nghiệp số toàn diện. Đây là những bước đi quan trọng, mở ra chuẩn mực mới cho ngành nước Việt Nam. Tuy nhiên, ông Trần Cường cũng thẳng thắn thừa nhận thách thức: vốn đầu tư lớn, hạn chế về nhân lực công nghệ, và rào cản từ thói quen tiêu dùng của người dân.
Song hành với đổi mới công nghệ, yếu tố tiêu chuẩn kỹ thuật cũng được nhấn mạnh tại hội thảo. Đại diện Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đề xuất sửa đổi ĐLVN 17:2017 - Quy trình kiểm định đồng hồ đo nước, nhằm bắt kịp tiến bộ công nghệ và nâng cao tính minh bạch.
Những nội dung đổi mới bao gồm: áp dụng tiêu chuẩn ISO 4064:2024, bổ sung yêu cầu kiểm tra sai số lưu lượng, thể tích tối thiểu, thời gian đo tối thiểu; đưa vào khái niệm kiểm định từ xa dựa trên nền tảng dữ liệu đám mây; và điều chỉnh chu kỳ kiểm định thống nhất 60 tháng cho cả đồng hồ cơ khí lẫn điện tử.
Các thay đổi này có ý nghĩa sâu rộng: vừa giúp minh bạch hóa đo lường và bảo vệ quyền lợi người dùng, vừa giảm chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời tạo bước tiến quan trọng cho quản trị số trong ngành nước.
“Khi nền tảng pháp lý vững chắc kết hợp cùng tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại và sức mạnh của chuyển đổi số, ngành Nước Việt Nam sẽ có cơ hội không chỉ khắc phục những hạn chế lâu nay, mà còn vươn lên mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới”, đại diện Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia khẳng định.
Cấp nước quy mô vùng - Lời giải chiến lược cho ĐBSCL
Tham luận tại Hội thảo, đại diện Công ty đầu tư ngành Nước DNP Water, ông Lều Mạnh Huy, Tổng Giám đốc Công ty cho rằng, ĐBSCL là khu vực kinh tế - xã hội trọng yếu của Việt Nam, đảm bảo vai trò “vựa lúa, vựa thủy sản” của cả nước. Tuy nhiên, vùng này đang phải đối diện với thách thức nghiêm trọng về tài nguyên nước, từ biến đổi khí hậu, sụt lún, xâm nhập mặn, cho đến khai thác nước ngầm quá mức và suy giảm chất lượng nguồn nước.
Đặc biệt, vào mùa khô, nhiều nhà máy nước ven biển buộc phải dừng hoạt động do độ mặn vượt tiêu chuẩn 5.000-6.000 ppm, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng chục triệu người.

Ông Lều Mạnh Huy, Tổng Giám đốc Công ty đầu tư ngành Nước DNP Water, chia sẻ giải pháp cấp nước bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL. Ảnh: Minh Khang.
Trước thực trạng đó, theo ông Huy, các giải pháp mang tính cục bộ, đơn lẻ không còn đáp ứng được nhu cầu lâu dài, mà cần một chiến lược mang tính hệ thống, liên kết vùng, đồng bộ với hạ tầng giao thông và có khả năng thích ứng bền vững.
Đại diện Công ty cũng đề xuất giải pháp tập trung vào bốn nguyên tắc: khai thác nước an toàn từ thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu, truyền dẫn bằng đường ống kín kết hợp hồ chứa nước ngọt; gắn kết phát triển hạ tầng cấp nước với các tuyến cao tốc lớn để tiết kiệm chi phí và tối ưu mặt bằng; áp dụng cơ chế giá nước hợp lý (3.000-3.500 đồng/m³ nước thô, 6.500-7.000 đồng/m³ nước sạch) nhằm đảm bảo công bằng xã hội và tính hấp dẫn cho nhà đầu tư; đồng thời kế thừa hạ tầng hiện hữu, kết nối với hệ thống mới để tránh lãng phí nguồn lực.
Theo đó, cơ chế đầu tư được thiết kế linh hoạt theo hình thức đối tác công - tư. Trong đó, doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư trạm bơm và tuyến ống chính, trong khi Nhà nước và địa phương đảm trách phần kết nối cuối, hỗ trợ pháp lý và giải phóng mặt bằng. “Cách tiếp cận này giúp giảm gánh nặng ngân sách, đồng thời khuyến khích sự tham gia rộng rãi của khu vực tư nhân”, ông Huy đề xuất.
Trên cơ sở đó, hai dự án cấp nước quy mô vùng đã được Công ty đề xuất. Thứ nhất, Dự án cấp nước vùng Bắc sông Tiền, công suất 600.000 m³/ngày đêm (giai đoạn 1: 300.000 m³), dự kiến khởi công cuối năm 2025, giá bán buôn nước thô khoảng 3.000 đồng/m³.
Thứ hai, Dự án cấp nước vùng Tây Nam sông Hậu, công suất 1.200.000 m³/ngày đêm (giai đoạn 1: 600.000 m³), lấy nước tại Châu Đốc, cung cấp cho tiểu vùng bán đảo Cà Mau và các tỉnh ven biển, giá nước thô khoảng 3.500 đồng/m³, nước sạch 7.000 đồng/m³, dự kiến hoàn thành năm 2028.
“Các giải pháp này hứa hẹn mang lại tác động toàn diện: về kinh tế, giảm chi phí sản xuất nước và thúc đẩy liên kết vùng; về xã hội, bảo đảm an ninh nước sạch và nâng cao chất lượng sống của người dân; về môi trường, giảm khai thác nước ngầm, hạn chế sụt lún và tăng khả năng thích ứng biến đổi khí hậu”, ông Huy nhấn mạnh.
Đặc biệt, giải pháp cấp nước bền vững cho ĐBSCL là bước đi chiến lược không chỉ nhằm giải quyết khủng hoảng trước mắt, mà còn tạo nền tảng cho phát triển lâu dài, an toàn và bền vững. Đây là minh chứng cho cách tiếp cận tổng thể, kết hợp lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời thể hiện cam kết mạnh mẽ trong bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.