Áp lực vận hành trong bối cảnh thời tiết biến động mạnh
Nhiều địa phương Trung Bộ đã trải qua đợt mưa lũ thứ tư trong năm, kéo theo ngập lụt diện rộng ở hạ du và áp lực lớn lên hệ thống hồ chứa thượng nguồn. Theo ông Phạm Công Thành, Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi Bắc Trung Bộ, Viện Quy hoạch Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), năm 2021 là một trong những năm xuất hiện nhiều trận lũ bão mạnh trên các lưu vực sông cả nước. Từ Bắc Bộ đến Nam Bộ đều ghi nhận các đợt mưa lũ bất thường, còn khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đang tiếp tục đối mặt tình huống phức tạp.
Là đơn vị tư vấn vận hành các hồ chứa lớn, Viện Quy hoạch Thủy lợi phối hợp cùng Trường Đại học Thủy lợi, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam và Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cung cấp các tính toán, dự báo nhằm hỗ trợ cơ quan quản lý và chủ hồ đưa ra quyết định kịp thời.
Ông Phạm Công Thành, Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi Bắc Trung Bộ, Viện Quy hoạch Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: Minh Phúc.
Ông Phạm Công Thành nhìn nhận hệ thống vận hành hiện nay có những thuận lợi quan trọng, trong đó có sự chỉ đạo sát sao từ Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai các địa phương. Trước và trong mùa lũ, các văn bản hướng dẫn hạ thấp mực nước đón lũ, kiểm tra an toàn công trình được ban hành liên tục, giúp các đơn vị vận hành chủ động hơn.
Theo ông Phạm Công Thành, miền Trung là khu vực thường xuyên hứng chịu lũ lớn nên cán bộ vận hành hồ chứa có kinh nghiệm dày dạn, khả năng xử lý tình huống tốt. Trận lũ cuối tháng 10 đầu tháng 11 vừa qua là ví dụ rõ rệt. Hồ Tả Trạch đã hạ mực nước đón lũ đúng quy trình, tạo không gian trữ nước và giảm đáng kể đỉnh lũ của sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. “Hiệu quả điều tiết của hồ Tả Trạch trong đợt lũ vừa rồi được thể hiện rõ rệt qua thực tế mực nước hạ du. Đây là kết quả của quá trình vận hành linh hoạt và phối hợp hiệu quả giữa các đơn vị”, ông Thành nhấn mạnh.
Dù vậy, khó khăn vẫn ở mức rất lớn. Mưa lũ gần đây thường vượt ngưỡng dự báo, thậm chí vượt các mô hình khí tượng quốc tế. Ông Phạm Công Thành dẫn chứng ngày 27/10, trạm Bạch Mã ghi nhận lượng mưa xấp xỉ 151 mm mỗi giờ, còn Khe Tre gần 120 mm mỗi giờ. Với đặc điểm lũ về nhanh chỉ sau 2 đến 3 giờ mưa lớn, hồ Tả Trạch phải vận hành trong áp lực tính toán liên tục. Nhiều năm trở lại đây, trong khoảng mười ngày cao điểm có thể xuất hiện bốn đến năm đỉnh lũ, buộc cán bộ vận hành làm việc với cường độ dồn dập để bảo đảm hiệu quả điều tiết.
Phối hợp vận hành liên hồ tạo dư địa giảm lũ hạ du
Được giao quản lý và vận hành hồ Tả Trạch, ông Nguyễn Quý An, Phó Ban Quản lý khai thác hồ Tả Trạch, cho biết: Nhiệm vụ quan trọng nhất là tuân thủ đúng Quy trình vận hành liên hồ chứa do Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định. Đơn vị phải theo dõi sát diễn biến thời tiết, tình trạng khí tượng - thủy văn, các tính toán dự báo để xây dựng kịch bản ứng phó từng thời điểm.
Ông Nguyễn Quý An chia sẻ rằng mỗi khi có bão hoặc dự báo mưa lớn, áp lực đối với đơn vị tăng lên đáng kể vì phải đưa ra quyết định điều tiết hài hòa giữa yêu cầu an toàn công trình, mục tiêu giảm lũ và bảo đảm hoạt động kinh tế - xã hội ở hạ du.
Việc điều tiết nước hồ Tả Trạch có vai trò quan trọng trong việc phòng chống thiên tai, giảm thiểu rủi ro ngập lụt cho vùng hạ du TP. Huế.
Có những thời điểm UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự đưa ra mệnh lệnh điều tiết tức thời, buộc lực lượng vận hành phải tính toán lại ngay lưu lượng đến, lưu lượng xả để tham mưu điều chỉnh kịp thời nếu có khả năng cắt giảm đỉnh lũ.
Việc phối hợp giữa các hồ Tả Trạch, Hương Điền và Bình Điền luôn giữ vai trò then chốt. Các thông số đầu vào được cập nhật liên tục, từ đó đưa ra phương án điều tiết đồng bộ giữa thượng và hạ lưu sông Hương. “Khi phối hợp vận hành nhịp nhàng, các hồ sẽ tạo ra hiệu quả giảm lũ rõ rệt cho thành phố Huế. Trong đợt lũ vừa qua, các địa phương vùng hạ du đánh giá rất cao tác dụng cắt lũ của hệ thống hồ”, ông Nguyễn Quý An khẳng định.
Theo đánh giá của các địa phương, kết quả đạt được đến từ việc chủ động theo dõi thời tiết theo thời gian thực, hoàn thiện kịch bản vận hành và duy trì sự phối hợp liên tục giữa các đơn vị chuyên môn. Sự chuẩn bị chu đáo trước mùa mưa lũ, đặc biệt là yêu cầu hạ thấp mực nước đón lũ theo đúng quy trình, đã giúp tăng dung tích trữ và tạo dư địa điều tiết trong các trận mưa lớn có cường suất bất thường.
Việc vận hành hồ trong mùa mưa lũ luôn gắn với nhiều rủi ro khó lường, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến hình thái thời tiết thay đổi bất thường. Tuy vậy, thực tế tại Thừa Thiên Huế thời gian qua cho thấy khi hệ thống vận hành liên hồ được thực hiện nhất quán và linh hoạt, hiệu quả giảm lũ cho hạ du luôn được thể hiện rõ ràng. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện các quy trình vận hành, tăng cường năng lực dự báo và mở rộng ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý nguồn nước ở miền Trung trong những năm tới.















