“Một số kết quả từ vòng đàm phán INC-5.2 có thể tác động đến sản xuất, thiết kế nhựa và thị trường đầu ra của nhựa - những yếu tố thực sự then chốt”, Giám đốc điều hành Hiệp hội Quản lý chất thải rắn Bắc Mỹ (SWANA), bà Amy Lestition Burke, chia sẻ trong cuộc đối thoại SWANA tại Washington D.C (Mỹ) trước thềm phiên họp INC-5.2.
Theo bà Burke, dù hướng đi của vòng đàm phán lần này chưa rõ ràng, nhưng các bên liên quan trong ngành chất thải và bao bì đang đặc biệt quan tâm tới hai vấn đề lớn: Mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và hạn chế tổng sản lượng nhựa. Đây là hai yếu tố có thể tái định hình chuỗi cung ứng tái chế và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định thiết kế bao bì của các thương hiệu.
Các cuộc đàm phán INC-5.2, diễn ra từ ngày 5/8 đến 14/8 tại Geneva (Thụy Sĩ), là một phần của tiến trình toàn cầu bắt đầu từ năm 2022, nhằm xây dựng một thỏa thuận nhựa quốc tế có tính ràng buộc pháp lý để chấm dứt ô nhiễm nhựa. Mục tiêu ban đầu là hoàn tất đàm phán vào cuối năm 2024, nhưng vòng đàm phán INC-5.1 tại Busan (Hàn Quốc) đã phải tạm dừng mà không đạt được đồng thuận.
Dù một số bên từng bày tỏ thất vọng khi tiến trình kéo dài sang năm 2025, các diễn giả tại cuộc trao đổi với SWANA khẳng định thỏa thuận nhựa là một nỗ lực xứng đáng.
“Điều mà tất cả chúng ta đều đồng ý là ngành quản lý chất thải và tài nguyên đóng vai trò then chốt trong giải pháp này”, bà Burke nhấn mạnh.
Ông Chuck Chaitovitz, Phó Chủ tịch phụ trách môi trường và phát triển bền vững tại Phòng Thương mại Mỹ, cho rằng lý tưởng nhất, vòng đàm phán INC-5.2 nên đưa ra một khuôn khổ toàn cầu khuyến khích tham vọng quốc gia, đồng thời xây dựng hệ thống thu gom - tái sử dụng hiệu quả và thiết lập thị trường tiêu thụ cuối cho nền kinh tế tuần hoàn.

Các diễn giả thảo luận về các kỳ vọng đối với phiên họp INC-5.2 về thỏa thuận nhựa toàn cầu tại cuộc đối thoại SWANA. Ảnh: Waste Dive.
Đầu tư cho tái chế - cần hành động ngay
Ông Ganesh Nagarajan, Giám đốc cấp cao phụ trách mảng nhựa tại Công ty Waste Management (WM), cho rằng thỏa thuận nhựa toàn cầu cần bao gồm các khoản đầu tư vào hạ tầng tái chế, cả ở các nước phát triển và đang phát triển, đồng thời đảm bảo thị trường đầu ra lâu dài cho vật liệu tái chế.
“Các khoản đầu tư này cần được thực hiện ngay, không chỉ dựa vào khung pháp lý hay một thỏa thuận, mà còn cần có thị trường ổn định và bền vững phía sau”, ông chia sẻ.
Việc mở rộng thị trường đầu ra sẽ giúp tăng tỷ lệ tái chế cho các vật liệu khó xử lý như màng nhựa và bao bì dẻo, hiện chỉ có 2% được tái chế. WM đang thử nghiệm các chương trình thu gom thử nghiệm, nhưng hiện tại chỉ mới tái chế được số lượng mà khách hàng vô tình bỏ vào thùng.
“Đó là một cơ hội lớn chưa được khai thác. Chúng tôi muốn đảm bảo có một thị trường đầu ra mạnh và ổn định trước khi cho phép khách hàng đưa các loại vật liệu đó vào hệ thống thu gom.”
Không chỉ dừng lại ở hành động tự nguyện
Trong khi đó, ông Jeff Bezzo, lãnh đạo mảng bền vững nhựa tại SC Johnson, chỉ ra nhiều thương hiệu toàn cầu đã đặt ra mục tiêu sử dụng nhựa tái chế và điều này đang thúc đẩy thị trường quản lý chất thải nhựa tăng trưởng. Dù vậy, ông cho rằng chỉ dựa vào hành động tự nguyện là chưa đủ.
“Chúng tôi đã đạt được tiến trong nỗ lực giải quyết ô nhiễm nhựa, trong đó 25% bao bì của SC Johnson trên toàn cầu được làm từ nhựa tái chế. Dù vậy, chúng tôi muốn làm nhiều hơn. Nhưng rất khó có thể cạnh tranh nếu chỉ một vài bên nỗ lực tự nguyện, trong khi không ai cùng chèo lái theo hướng đó”, ông giải thích.
“Nếu có cơ chế tài chính tốt hơn, chúng ta sẽ thu gom được nhiều hơn, có cơ sở phân loại (MRF) tốt hơn và thị trường đầu ra phát triển hơn”, ông nói thêm.
Nói thêm về kỳ vọng của mình, ông cho rằng EPR nên được đưa vào hướng dẫn thiết kế trong thỏa thuận toàn cầu, giúp các nhà sản xuất trên toàn cầu hiểu rõ nên thiết kế bao bì như thế nào để tăng khả năng tái chế.

Mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và hạn chế tổng sản lượng nhựa là 2 nội dung được ngành tái chế và bao bì quan tâm liên quan tới quá trình đàm phán thỏa thuận nhựa toàn cầu. Ảnh: Greenpeace.
Về nội dung nhựa tái chế sau tiêu dùng (PCR), ông cho rằng cần tăng dần tỷ lệ bắt buộc theo thời gian, để các nhà cung ứng có thể chuẩn bị và đảm bảo thị trường đầu ra hiệu quả.
Ông Chaitovitz đồng tình rằng EPR cần có một "chỗ đứng" trong thỏa thuận nhựa toàn cầu, nhưng nhấn mạnh Mỹ hiện vẫn đang tranh luận nội bộ về cách vận hành tổ chức EPR (PRO), ai được quyền tham gia và ai được quyền sở hữu vật liệu tái chế, bao gồm cả đơn vị tái chế lẫn các thương hiệu muốn tái sử dụng nguyên liệu này.
Tại WM, ông Nagarajan cho biết EPR sẽ là đòn bẩy quan trọng nếu đi kèm các yếu tố thúc đẩy nhu cầu, chẳng hạn như mức tối thiểu bắt buộc cho hàm lượng nhựa tái chế trong sản phẩm.
Trong các phiên đàm phán trước, các bên tham gia đã tranh luận về việc liệu có nên áp trần sản xuất nhựa nguyên sinh hay không. Các diễn giả tại sự kiện SWANA cho biết họ đang chờ xem hướng đi của chủ đề này trong vòng đàm phán tại Geneva.
Ông Bezzo cho rằng các thương hiệu cần bắt đầu giảm phụ thuộc vào nhựa nguyên sinh. Điều này có thể thúc đẩy thông qua các yêu cầu về PCR, thiết kế sản phẩm nhẹ hơn, cũng như các chương trình tái sử dụng và nạp lại.
“Người tiêu dùng đã thể hiện mong muốn sử dụng sản phẩm ít nhựa hơn,” ông Chaitovitz nói thêm. “Nhưng quyết định cuối cùng vẫn phải đến từ thị trường”.