Bảo tồn nguồn gen quý hiếm đàn bò tót lai

Từ vùng rừng khộp thuộc Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình, tọa lạc tại xã Bác Ái Tây, tỉnh Khánh Hòa (trước đây là Vườn quốc gia Phước Bình, thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận) những nhà khoa học vẫn đang miệt mài thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt “Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen bò tót lai F1”, đây là kết quả của cuộc giao phối tự nhiên hiếm hoi giữa bò nhà (Bos taurus) và bò tót hoang dã (Bos gaurus).

Nhiệm vụ nghiên cứu này được triển khai với mục tiêu gìn giữ một quần thể động vật lai độc đáo bậc nhất Việt Nam - những cá thể mang trong mình “dấu ấn rừng xanh” của loài bò tót, đồng thời mở ra hướng phát triển sinh học ứng dụng và giáo dục bảo tồn thiên nhiên cho thế hệ tương lai.

Đưa chúng tôi thăm đàn bò tót lai 11 con, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý Tài nguyên và Dự trữ sinh quyển (Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình) nhắc nhở, phải đứng từ xa để quay phim, chụp hình vì chúng vẫn mang tập tính hoang dã nên rất hung dữ. Thấy chúng tôi thắc mắc, vì sao con mang màu lông đen, con lông mang màu vàng, ông Tuấn giải thích, màu đen là con đực, màu vàng là con cái.

“Để duy trì đàn bò tót lai được béo tốt, lông óng mượt và khỏe mạnh, Vườn phải thuê 2 lao động là người địa phương chăm sóc. Một người có nhiệm vụ trông coi đàn bò khi chúng được thả ra ngoài tìm thức ăn, một người dọn dẹp vệ sinh chuồng trại và cắt cỏ cho chúng ăn khi lùa về chuồng”, ông Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ.

Ông Tuấn cho biết thêm, việc chăm sóc đàn bò khỏe mạnh là nhiệm vụ khoa học vừa có tính cấp bách, vừa có ý nghĩa to lớn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia. Đàn bò tót lai không chỉ là kết quả của tự nhiên mà còn là nguồn gen quý hiếm, nếu không bảo tồn kịp thời, chúng ta sẽ đánh mất cơ hội nghiên cứu vô cùng giá trị.

Bò tót hay còn gọi là con Min theo cách gọi của người dân sống dọc theo dãy Trường Sơn hoặc Kvây trong tiếng Raglai từ lâu đã được xem là biểu tượng của sức mạnh hoang dã vùng rừng nhiệt đới Đông Nam Á.

Là phân loài bò tót lớn nhất, chúng có ngoại hình đồ sộ, con trưởng thành có thể cao tới 1,9m, nặng gần 1 tấn. Điểm nổi bật là chúng có cặp sừng cong hình bán nguyệt nhọn đen bóng, lông cũng đen óng ánh, bốn chân từ kheo trở xuống màu trắng ngà trông như đi tất trắng.

Theo các nhà khoa học, ở Việt Nam, số lượng bò tót ngoài tự nhiên đã giảm hơn 90%, từ hơn 3.000 con (thập niên 1970) xuống chỉ còn khoảng 300 cá thể sống rải rác tại các khu rừng thuộc Tây Nguyên, Khánh Hòa, Đồng Nai... chúng được xếp vào nhóm động vật nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng cao do mất sinh cảnh và nạn săn trộm hoành hành. Trong đó, Khánh Hòa là địa phương có ghi nhận sự hiện diện của đàn bò tót tại Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình. Theo đánh giá của chuyên gia động vật, đây là một trong những khu rừng đặc dụng có quần thể bò tót với số lượng cá thể lớn hiện nay.

Câu chuyện về đàn bò tót lai ở Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình bắt đầu từ khoảng năm 2009, khi người dân thôn Bậc Rây 2, nằm trong vùng đệm của Vườn quốc gia phát hiện một cá thể bò tót đực thường xuyên nhập đàn bò nhà để kiếm ăn.

Hiện tượng giao phối tự nhiên xảy ra và thời gian sau đó, những con bê có màu lông đen, chân trắng, tính khí hung hăng và phát triển nhanh vượt trội đã ra đời - đó là thế hệ F1, những “đứa con lai” đầu tiên giữa bò tót và bò nhà.

Để xác minh nguồn gốc, giai đoạn 2012 - 2014, Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Thuận phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng giao cho Vườn quốc gia Phước Bình và Trung tâm Ứng dụng Khoa học và Công nghệ Lâm Đồng thực hiện đề tài liên tỉnh “Nghiên cứu giám định di truyền và đánh giá khả năng sinh sản của bò lai F1 giữa bò nhà (Bos taurus) và bò Tót (Bos gaurus) tại vùng rừng giáp ranh tỉnh Ninh Thuận và Lâm Đồng”.

Kết quả cho thấy 10 cá thể bò lai F1 có bộ nhiễm sắc thể 2n = 58, đúng như lý thuyết di truyền khi lai giữa bò nhà (2n = 60) và bò tót (2n = 56). Từ đó, Việt Nam lần đầu tiên xác nhận sự tồn tại của đàn bò tót lai tự nhiên, một sự kiện hiếm thấy trong nghiên cứu bảo tồn động vật hoang dã.

 

Từ năm 2015, Đề tài “Khai thác và phát triển nguồn gen bò quý hiếm tại vùng rừng giáp ranh Ninh Thuận - Lâm Đồng - Khánh Hòa” do TS Lê Xuân Thám, nguyên Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng chủ trì tiếp tục được triển khai.

Nhóm nghiên cứu đã xác định được khả năng sinh sản của đàn bò lai thế hệ thứ 1 và thế hệ thứ 2; đồng thời xây dựng các quy trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng chống dịch bệnh, trồng và dự trữ thức ăn cho đàn bò quý hiếm này. Cùng thời điểm, tại khu vực chăn nuôi của người dân thôn Bậc Rây 2, một số hộ có các cá thể bò tót F1 đã ghi nhận được hiện tượng sinh sản.

Trong khuôn khổ đề tài đã tiến hành thực hiện 6 nội dung nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy bò cái F1 có khả năng sinh sản, khi phối giống với bò nhà cho ra thế hệ bê có 25% máu bò tót và bộ nhiễm sắc thể cân bằng 2n = 60. Bò đực F1 cũng chứng minh được khả năng truyền nguồn gen khi phối giống cho ra con lai có đặc điểm di truyền tương tự.

Bò lai F2 ngoài dòng cho thấy khả năng sinh trưởng và sinh sản tốt, tiếp tục cho ra đời thế hệ F3 khỏe mạnh. Về thể trạng, bò F1 khi trưởng thành có trọng lượng vượt trội so với bò vàng và bò lai Sind; bò F2 phát triển tương đương bò lai Sind.

Tuy nhiên, khi lai cận huyết (giữa bò đực và cái F1 cùng dòng) để tạo thế hệ F2 có 50% máu bò tót chưa mang lại kết quả, dù đã theo dõi 94 lần phối giống trong 3 năm. Điều này khẳng định sự giới hạn về di truyền trong dòng lai hẹp và cho thấy hướng nghiên cứu cần mở ra là lai ngược với bò nhà hoặc giống nền khác để duy trì sức sống di truyền.

Tuy vậy, do giai đoạn sau khi kết thúc đề tài (năm 2019) đàn bò không được chăm sóc đầy đủ nên hiện trạng có sự phân hóa: một số cá thể khỏe mạnh, một số gầy và suy dinh dưỡng.

Để tiếp tục gìn giữ nguồn gen bò tót quý hiếm này, UBND tỉnh Ninh Thuận (cũ) đã  chỉ định Vườn quốc gia Phước Bình tiếp nhận tài sản của nhiệm vụ quỹ gen cấp quốc gia. Tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn và khai thác có hiệu quả nguồn gen bò tót lai từ đề tài “Khai thác và phát triển nguồn gen bò quý hiếm tại vùng rừng giáp ranh 3 tỉnh Ninh Thuận - Lâm Đồng - Khánh Hòa”, thời gian thực hiện từ 2021 - 2025. 

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng phòng Quản lý tài nguyên và Dự trữ sinh quyển (Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình), sau thời gian chăm sóc tích cực từ năm 2021 đến nay, thể trạng của đàn bò đã ổn định hơn, bò đực nặng khoảng 700 - 800 kg, bò cái đạt 500 kg, sức khỏe được theo dõi định kỳ. “Bò tót lai có tính khí hoang dã, hung hăng, nên việc tiếp cận, kiểm tra, tiêm phòng rất khó khăn. Chúng tôi phải bố trí khu chuồng trại có hàng rào thép kiên cố, có bác sĩ thú y chuyên trách và quy trình an toàn nghiêm ngặt”,  ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết.

Công tác chăm sóc bao gồm chế độ ăn đặc biệt với rơm khô, cỏ tươi, thức ăn tinh, muối khoáng và thuốc phòng bệnh được trộn sẵn. Tổng kinh phí cho giai đoạn 2021 - 2025 gần 2,5 tỷ đồng, trong đó phần lớn dành cho xây dựng chuồng trại và khu chăn thả.

Hiện nay, khu vực Vườn Thực vật của Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình đã trở thành nơi chăm sóc, nuôi dưỡng chính thức cho đàn bò lai. Khu nuôi bán hoang dã rộng 3 ha được bao quanh hàng rào kiên cố, có đồng cỏ và kiểu rừng khộp phù hợp cho việc nuôi nhốt bán hoang dã, đây là điều kiện thích hợp với việc duy trì và phục hồi quần đàn các thế hệ con lai bò tót.

Dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, hành trình bảo tồn nguồn gen bò tót lai vẫn đầy thử thách. Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, vấn đề lớn nhất hiện nay là hạn chế về điều kiện lai tạo và nghiên cứu chuyên sâu. Do không có đàn bò nền để thực hiện lai ngược, cơ hội tạo ra thế hệ bê con mang bộ nhiễm sắc thể cân bằng 2n = 60 rất thấp.

“Chúng tôi đang hy vọng trong số những cá thể hiện tại, nếu có thể sinh ra được một con bê đực mang 60 nhiễm sắc thể thì đó sẽ là bước đột phá khoa học lớn. Bởi từ con đực này, chúng ta có thể lấy tinh để nhân giống, tạo ra nguồn bò lai quý hiếm cho cả Việt Nam và khu vực”, ông Tuấn kỳ vọng.

Một hướng đi khác được nhóm nghiên cứu đề xuất là liên kết với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp chăn nuôi để tiếp tục theo dõi và mở rộng chương trình lai tạo. Việc đưa bò nhà hoặc bò giống ngoại vào lai với các cá thể F1, F2 có thể giúp duy trì ưu thế lai và đa dạng di truyền.

Bên cạnh đó, Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình cũng kết hợp với Công ty TNHH MTV Thảo Cầm Viên Sài Gòn, đây là đơn vị có kinh nghiệm thú y động vật hoang dã để đảm bảo tính khoa học và an toàn trong chăm sóc đàn bò tót. Đồng thời, Trung tâm Giáo dục và Dịch vụ Môi trường rừng trực thuộc Vườn quốc gia được giao nhiệm vụ tổ chức các chương trình giáo dục bảo tồn cho học sinh, sinh viên và khách tham quan, giúp lan tỏa ý thức bảo vệ đa dạng sinh học.

Bên cạnh ý nghĩa khoa học, mô hình này còn mở ra tiềm năng kết hợp du lịch sinh thái. Những năm gần đây, lượng du khách đến Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình tham quan tăng đều, đặc biệt là nhóm sinh viên, nhà nghiên cứu và khách yêu thiên nhiên. Tuy chưa thu phí tham quan riêng cho khu nuôi bò tót lai, nhưng hoạt động này đã góp phần nâng cao hình ảnh của Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình như một điểm đến của khoa học xanh và du lịch bền vững.

Tính đến nay, đàn bò tót lai tại Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình gồm 11 cá thể, thuộc ba thế hệ khác nhau. Nhóm bò trẻ nhất mới hơn 12 năm tuổi, trong khi những cá thể F1 đầu tiên đã bước sang giai đoạn 15 - 16 tuổi, cận kề cuối chu kỳ sinh sản. Vì vậy, theo ông Nguyễn Anh Tuấn, thời điểm 3 - 5 năm tới là “khoảng thời gian vàng” để tranh thủ nghiên cứu, lai tạo và bảo tồn di truyền.

“Bò tót thường chỉ sinh sản đến khoảng 20 tuổi, nếu không tận dụng được giai đoạn này thì nguồn gen quý sẽ dần mất đi. Chúng tôi mong được phối hợp với các nhà khoa học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để tiếp tục chương trình nhân giống, bảo tồn lâu dài”, ông Tuấn nói.

Đằng sau nỗ lực đó là hình ảnh những cán bộ Vườn quốc gia ngày ngày chăm sóc, cho ăn, theo dõi từng con bò, bất chấp điều kiện địa hình rừng núi xa xôi, khắc nghiệt. Trong khu chuồng nuôi, từng con bò tót lai vẫn mang trong mình bản năng hoang dã. Đó là vẫn xuất hiện tình trạng đánh nhau trong quần đàn để lựa chọn con đầu đàn. Đây cũng chính là biểu hiện sinh tồn mạnh mẽ, minh chứng cho dòng máu rừng vẫn chảy trong huyết quản của chúng.

Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen bò tót lai không chỉ góp phần gìn giữ di sản thiên nhiên quý hiếm của Việt Nam mà còn tạo tiền đề cho nghiên cứu ứng dụng trong chọn giống chăn nuôi, nâng cao năng suất và thích nghi với điều kiện khí hậu khô hạn miền Trung.

“Đây là đề tài không chỉ mang ý nghĩa bảo tồn, mà còn mở ra cánh cửa cho khoa học Việt Nam tiến sâu hơn vào lĩnh vực di truyền động vật hoang dã. Chúng tôi đang nỗ lực từng ngày để không một giọt máu rừng nào bị mất đi”, ông Tuấn khẳng định.

Từ một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa bò nhà và bò tót rừng, Việt Nam hôm nay đã có trong tay một nguồn gen lai độc nhất vô nhị. Dù chặng đường phía trước còn nhiều thách thức, nhưng với tâm huyết của những người làm khoa học, đàn bò tót lai ở Vườn quốc gia Núi Chúa - Phước Bình sẽ tiếp tục được bảo vệ như một biểu tượng của khát vọng con người trong hành trình hòa hợp với thiên nhiên.

Phương Chi - Mai Phương
Trọng Toàn
Phương Chi
Phương Chi

Tin liên quan

Đàn bò lai hạnh phúc

Đàn bò lai hạnh phúc

eMagazine 15:39

QUẢNG TRỊ Gần 2 năm sau khi được UBND TP. Hà Nội hỗ trợ, đàn bò giống tại Trung tâm Thực nghiệm và Chuyển giao Kỹ thuật nông nghiệp Quảng Trị phát triển tốt.

Giấc mơ lớn từ con bò vàng xứ đá

Giấc mơ lớn từ con bò vàng xứ đá

eMagazine 13:56

TUYÊN QUANG Con bò vàng cao nguyên đá Tuyên Quang gắn với khát vọng thoát nghèo của đồng bào, mang giấc mơ xây dựng thương hiệu quốc gia, nâng tầm giá trị nông sản Việt.

Tây Ninh -  Trung tâm chăn nuôi công nghệ cao vùng Đông Nam Bộ

Tây Ninh - Trung tâm chăn nuôi công nghệ cao vùng Đông Nam Bộ

eMagazine 13:21

Với chiến lược phát triển xanh, ứng dụng công nghệ hiện đại và định hướng xuất khẩu bền vững, Tây Ninh đang trở thành trung tâm chăn nuôi công nghệ cao vùng Đông Nam Bộ.

Xem thêm