
Đặt chân lên cao nguyên đá Đồng Văn, dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con bò vàng gắn bó mật thiết với đời sống của đồng bào vùng cao. Từ những nương đá cheo leo, vạt ngô xanh ngắt cho tới khu vườn nhỏ bên ngôi nhà trình tường vàng đất, bóng dáng con bò vàng luôn hiện hữu, bình dị mà thân thương.
Từ các xã Mậu Duệ, Yên Minh, Đường Thượng cho tới Khâu Vai, mùa này cỏ voi, cỏ VA06, Guatemala đang phủ xanh những triền đá xám. Loài cỏ ấy thay thế cho cỏ hoang, nuôi sống những con bò vàng, cũng như nuôi lớn thêm ý chí và khát vọng vươn lên của người Mông trên cao nguyên đá.
Ngôi nhà của Sùng Chú Ly, thôn Sảng Pả Một, xã Đường Thượng hiện lên sau hàng rào đá vững chãi. Bước qua cánh cổng nhỏ là căn nhà gỗ đơn sơ, những tấm ván ghép đen bóng bởi khói bếp, bao năm tháng bền bỉ cùng thời gian.
Sùng Chú Ly được biết đến là một trong những người nuôi bò mát tay nhất ở Đường Thượng. Chuồng nhà anh lúc nào cũng rộn tiếng bò, hiện có tới 11 con. Đặc biệt, cách đây mấy năm, con bò đực nặng hơn sáu tạ của vợ chồng anh đã giành liền hai giải Nhất trong hội thi do UBND huyện Yên Minh tổ chức: “Bò có ngoại hình đẹp” và “Lực sĩ bò vàng”.
Sau hội thi, chú bò ấy còn được chọn làm giống, nối bước gieo mầm cho những đàn bò cái ở khắp các bản làng người Mông trong vùng.
Ly bảo, đất Đường Thượng toàn đá, cái khó của người Mông nơi đây dường như gấp đôi những vùng khác. Họ không chỉ vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt mà còn phải vượt qua cái bóng u ám của thuốc phiện.


Đã có một thời, hoa anh túc rực rỡ khắp các triền núi, trước hiên nhà, sắc xanh, hồng, tím tưởng như đẹp đẽ mà lại kéo theo bao cảnh cơ cực, khốn cùng. Phải mất mấy chục năm, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền cùng nỗ lực bền bỉ của người dân, cây thuốc phiện mới dứt khỏi nương đá, như một vết thương từng nhức buốt rồi cũng đến ngày liền sẹo.
Khi cây thuốc phiện lùi vào quá khứ cũng là lúc đàn bò vàng tìm về với chuồng trại, nương ngô, nương cỏ voi xanh mướt trên đá. Từ con bò, nhà Ly có tiền cho sáu đứa con đến trường, có của để dựng vợ gả chồng. Mỗi đứa khi bước ra lập gia đình đều được cha mẹ trao cho một con bò, vừa là tài sản khởi đầu, vừa là điểm tựa để chúng lo toan cuộc sống mới giữa nương đá quê hương.
Mới 12 tuổi, Mua Mí Pó ở thôn Khai Hoang Một, xã Yên Minh đã mất cha. Gánh nặng của người đàn ông duy nhất trong nhà sớm đặt lên đôi vai non nớt, buộc Pó trở thành chỗ dựa cho mẹ và các em. Cũng bởi thế, cậu bé Mông ấy mang trong mình sự từng trải, già dặn hơn so với lứa tuổi.
Trong khi lũ bạn cùng trang lứa còn mải chơi quay, tập uống rượu, thì Pó đã quen thuộc với việc vác cày lên nương, theo bước con bò xới tung những thớ đất cứng đầu. Cậu biết gieo hạt ngô vào từng kẽ đá để rồi đến mùa lại đầy ắp nồi mèn mén nuôi cả nhà, và cũng biết trồng thật nhiều cỏ voi xanh tốt làm thức ăn cho bò.
Bởi vậy mà năm 2015, Pó đã có tiền để mỗi ngày bỏ ra 20 lít rượu, 20 lít xăng, 20 cân thịt và nồi mèn mén thật to nhờ người làng đến giúp chở vật liệu từ trên phố về làng. Rồi anh trở thành người xây được cái chuồng bò to nhất bản Khai Hoang Một. Trong chuồng nhà Pó lúc nào cũng có 6 đến 10 con bò to lớn, khỏe mạnh.
Pó tâm sự, với người Mông, con bò không chỉ là sức kéo trên nương rẫy, giúp cày xới đất đá để gieo hạt, mà còn là điểm tựa vững chãi để đẩy lùi cái nghèo khỏi mái nhà ụp xụp. Nó cho bà con cái ăn, cái mặc, cho trẻ nhỏ cơ hội đến trường học chữ. Từ con bò vàng truyền đời ấy, biết bao ước mơ đã bật dậy như mầm xanh nảy từ khe đá, gieo hy vọng, nuôi dưỡng cả một đời người.
Hiện nay, tại các xã quy hoạch bảo tồn và phát triển giống bò vàng, chính quyền địa phương đã quan tâm chỉ đạo, bố trí kinh phí từ nhiều nguồn trong đó có nguồn vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ người dân phát triển các dự án chăn nuôi bò theo hướng liên kết, dự án cộng đồng với 614 dự án/16.150 hộ được hưởng lợi. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư, mở rộng quy mô chăn nuôi theo hướng hàng hóa, gắn với ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.

Tôi gặp Thượng Thái Cát, Giám đốc HTX Cát Lý, người đàn ông đang góp phần nâng tầm giá trị bò vàng nơi cao nguyên đá. Anh có thể bán 1 kg thịt bò vàng với giá lên tới 1,1 triệu đồng, sánh ngang thịt bò Úc, bò Mỹ.
Hợp tác xã Cát Lý có trụ sở tại xã Thuận Hòa, hiện đang chủ trì triển khai 5 chuỗi liên kết giá trị trong chăn nuôi bò vàng với tổng quy mô 3.506 con, huy động sự tham gia của 1.381 hộ dân tại 16 xã.
Mấy năm trước, anh Cát đã là ông chủ của một hợp tác xã sở hữu tới 300 con bò, liên kết cùng hơn 100 hộ dân trên vùng cao nguyên đá. Anh kể, cách làm là mỗi gia đình tự chăm sóc đàn bò của mình, còn HTX đứng ra hỗ trợ kỹ thuật, thú y, rồi bao tiêu đầu ra. Nhờ đó, con bò vàng không chỉ gắn bó với từng nếp nhà người Mông, mà còn được đưa vào một chuỗi sản xuất bài bản, bền vững.
Hiện nay, trung bình mỗi ngày HTX của anh Cát bán ra thị trường khoảng 10 con bò thịt cho thị trường Hà Nội và một số tỉnh lân cận. Số bò vàng ấy, HTX vẫn phải phụ thuộc vào thị trường trong dân.
Miệt mài gắn bó với đàn bò trên vùng đá xám, Cát nhận ra có những con bò cho ra loại thịt khác thường. Thớ thịt ấy xuất hiện những sợi mỡ li ti, giắt xen kẽ, tạo nên vị ngầy ngậy nhưng lại mềm tan, dậy hương đặc trưng của bò vàng.
Nhất là phần gầu nhiều mỡ, nhưng đó không phải lớp mỡ có thể dễ dàng gạt bỏ, mà là mỡ hòa lẫn trong từng thớ thịt. Gặp được người chế biến khéo, miếng thịt ấy khi đưa vào miệng gần như tan ra, để lại dư vị khó quên. Nhưng hiếm lắm, trong mười con bò vàng đem thịt, may mắn lắm mới có một con sở hữu phẩm chất đặc biệt ấy.


Đây cũng chính là điều từng khiến Cát trăn trở suốt nhiều năm trong hành trình tìm kiếm và nhân rộng giống bò vàng quý. Giờ đây, anh hồ hởi chia sẻ, đã có cách nhận biết đâu là con bò có thịt giắt mỡ. Phát hiện ấy không chỉ giải tỏa bao nỗi lo canh cánh, mà còn mở ra hy vọng nâng tầm giá trị giống bò vàng của cao nguyên đá, sánh ngang với những dòng bò ngoại nổi tiếng.
Đó là nhờ sự đồng hành của các chuyên gia Hàn Quốc, Cục Chăn nuôi, Thú y và Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang. Những đoàn công tác đã lặn lội lên tận cao nguyên đá, khảo sát đặc tính sinh trưởng của giống bò vàng, tỉ mỉ phân loại từng đàn để tìm ra hướng phát triển bền vững.
Chính sự hỗ trợ ấy như tiếp thêm ngọn lửa cho Cát trên con đường gây dựng thương hiệu bò bản địa quê hương. Niềm tin càng trở nên mãnh liệt hơn trong anh, khi nghĩ đến viễn cảnh cuộc sống của những người Mông lầm lũi trên đá sẽ được đổi thay, từ chính con bò vàng quý báu.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang Trịnh Văn Bình đã có nhiều năm gắn bó với con bò Mông vùng cao. Anh thuộc từng nẻo đường đá xám, từng bản làng nơi bà con gửi gắm sinh kế vào loài vật hiền lành ấy. Tôi vẫn nhớ lần cùng anh rong ruổi trên cung đường cheo leo của cao nguyên đá, men theo vách núi dựng đứng, tìm về dấu tích của giống bò vàng, loài vật đã gắn bó máu thịt với cuộc sống người Mông suốt bao đời.

Chuyến đi ấy, chúng tôi men theo những con đường đá đến tận các xã của hai huyện Yên Minh và Quản Bạ (cũ). Ở đó, tận mắt thấy bà con dựng chuồng bò trên lưng núi, trồng từng luống cỏ voi xanh thẳm giữa biển đá xám mênh mông. Đất thì ít, nắng thì rát bỏng, cứ hắt xuống dòng dã quanh năm. Cái nghèo hiện hữu rõ rệt, in hằn trên bức tường đất vách nứt, trên lối mòn dẫn về bản, và trong bếp lửa chập chờn nơi nồi mèn mén vẫn xôi ùng ục từng ngày.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Tuyên Quang Trịnh Văn Bình chia sẻ, giờ đây cách làm chuồng trại, khâu vệ sinh và các biện pháp thú y trong chăn nuôi của bà con đã cải thiện đáng kể so với trước. Những đổi thay ấy không chỉ giúp đàn bò khỏe mạnh hơn mà còn mở ra hy vọng về một hướng đi bền vững. Tỉnh đã và đang triển khai nhiều chính sách hỗ trợ phát triển giống bò Mông
Đặc biệt là trong công tác cải tạo giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Từ năm 2021 đến nay, tỉnh đã thực hiện thụ tinh nhân tạo được 11.506 con, thành công 8.234 con (đạt 72%). Trong đó thụ tinh nhân tạo bằng tinh bò vàng được 8.595 con và đã có 6.946 con bê sinh ra. Các mô hình trồng cỏ gắn với khai thác, chế biến và ủ chua cỏ phục vụ vỗ béo bò thịt được nhân rộng, tạo tiền đề thuận lợi cho việc liên kết tiêu thụ và chế biến sản phẩm thịt bò.

Khát vọng lớn nhất mà tỉnh Tuyên Quang đang hướng tới là xây dựng thương hiệu bò vàng trở thành thương hiệu quốc gia, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm, tiến tới xuất khẩu thịt ra thị trường quốc tế.
Cuối năm 2024, đầu năm 2025, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã phối hợp với tỉnh Hà Giang (nay là Tuyên Quang) triển khai hai đề tài, dự án quan trọng: Điều tra hệ thống chăn nuôi, sử dụng thức ăn và khảo sát chất lượng thịt bò H’Mông và dự án định hướng chọn lọc, nâng cao khả năng sinh trưởng của giống bò này.
Trong quá trình thực hiện, các đơn vị đã tiến hành điều tra tại 23 xã với 128 hộ chăn nuôi, thu thập thông tin về tập quán sản xuất, đồng thời lấy mẫu thức ăn tinh và thô xanh để phân tích giá trị dinh dưỡng. Đây là những dữ liệu nền tảng quan trọng phục vụ công tác nghiên cứu và phát triển.
Trong cuộc làm việc mới đây giữa ngành chăn nuôi, thú y tỉnh Tuyên Quang với Cục Chăn nuôi và Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Dự án KOICA và các chuyên gia Hàn Quốc, chất lượng giống bò vàng Tuyên Quang đã nhận được sự đánh giá cao.
Ông Young Kyoon Oh, Quản lý thực địa Dự án KOICA cho biết: “Trước đây, bò Hanwoo của Hàn Quốc cũng là một đại gia súc dùng để làm sức cầy kéo. Thế nhưng sau khi Hàn Quốc mở cửa, người ta thấy rằng, thịt bò nhập khẩu tuy rẻ nhưng chất lượng kém hơn thịt bò bản địa của Hàn Quốc. Vì thế Chính phủ đã đưa ra quyết định phải tập trung vào giống bò của nước mình, để nâng cao cả trọng lượng và chất lượng. Đó là xuất phát điểm của việc xây dựng thương hiệu bò Hanwoo.

Tôi nhận thấy bò Mông của Việt Nam có độ thân thiện với môi trường cao, thức ăn chỉ là lá cây, thực vật đó cũng là một điểm sáng. Tôi hi vọng, thông qua dự án, KOICA cùng hợp tác với Cục Chăn nuôi và Thú y và tỉnh Tuyên Quang sẽ góp phần phát triển thương hiệu bò Mông nổi tiếng, không chỉ trong nước và cả thế giới”.
Ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, tư duy sản xuất hàng hóa trong chăn nuôi của người dân Tuyên Quang đã bắt đầu hình thành rõ nét. Trong đó, hợp tác xã giữ vai trò hạt nhân, vừa là đơn vị đặt hàng cho người chăn nuôi, vừa là cầu nối quan trọng đưa sản phẩm đến với thị trường.
Theo ông Đăng, con bò Mông ở Tuyên Quang không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là câu chuyện văn hóa của đồng bào vùng cao, gắn liền với bản sắc và có thể kết hợp hài hòa với phát triển du lịch. Ông đề nghị ngành Nông nghiệp và Môi trường tỉnh hằng năm cần dành những đề tài nghiên cứu chuyên sâu, tập trung vào việc phát triển giống bò này để nối tiếp, lan tỏa hiệu quả từ các dự án đã có. Đồng thời, mong muốn các chuyên gia trong và ngoài nước tiếp tục đồng hành, hỗ trợ địa phương trong từng bước xây dựng thương hiệu bò Mông.
Ông cũng nhấn mạnh, tỉnh Tuyên Quang cần tạo điều kiện để cán bộ cơ sở và bà con chăn nuôi được tham quan, học hỏi những mô hình tiên tiến, từ đó cho ra sản phẩm thực sự có giá trị. Một hệ thống đánh giá, tiêu chuẩn chất lượng cũng phải được thiết lập rõ ràng, để khi người tiêu dùng bỏ tiền mua có thể hiểu vì sao thịt bò lại ngon, lại khác biệt.
Sau những chuyến khảo sát, nếu kết quả đánh giá tính khả thi cao, địa phương và các đơn vị liên quan cần triển khai ngay việc bình tuyển giống, xây dựng quy trình chăn nuôi chuẩn hóa từ khâu chọn giống, chăm sóc đến thú y. Bởi lẽ, sinh kế của đồng bào miền núi vốn gắn bó mật thiết với tập quán canh tác truyền thống. Đây cũng là vùng an ninh phên dậu, biên cương Tổ quốc, nên mỗi bước đi với con bò Mông không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là sự gìn giữ văn hóa và ổn định xã hội.
