Từ nhiều năm nay, huyện Tân Yên (tỉnh Bắc Giang) đã chủ động triển khai cấp mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc đối với vải thiều chín sớm. Đây là điều kiện tiên quyết để sản phẩm không chỉ đạt chuẩn xuất khẩu mà còn khẳng định được thương hiệu trên thị trường quốc tế.

Vùng trồng vải chín sớm Tân Yên xuất khẩu đi thị trường Nhật Bản - một thị trường rất khó tính. Ảnh: Phạm Minh.
Theo thống kê của ngành nông nghiệp địa phương, vụ vải thiều năm 2025, toàn huyện Tân Yên có gần 1.400 ha vải được cấp mã số vùng trồng, trong đó trên 250 ha dành cho thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Các diện tích còn lại phân bổ cho các thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia và tiêu thụ nội địa. Các vùng trồng trọng điểm như xã Phúc Hòa, Hợp Đức, Tân Trung… đều được cấp mã và tổ chức tập huấn kỹ thuật, giám sát vùng nguyên liệu chặt chẽ.
Việc quản lý bằng mã số vùng trồng giúp truy vết chính xác quy trình sản xuất, giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là đảm bảo tính đồng nhất chất lượng sản phẩm theo từng lô hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, hệ thống tem điện tử, mã QR được dán trên từng thùng hàng giúp người tiêu dùng dễ dàng kiểm tra nguồn gốc, ngày thu hoạch, tiêu chuẩn áp dụng cũng như cơ sở đóng gói.
Không chỉ đáp ứng các điều kiện kỹ thuật, việc triển khai đồng bộ mã vùng và truy xuất còn là cách để tái định vị thương hiệu vải chín sớm Tân Yên, nâng từ sản phẩm truyền thống sang sản phẩm tiêu chuẩn cao, có tính minh bạch và khả năng cạnh tranh.
Đưa mã vùng và tem QR vào quản lý không chỉ phục vụ xuất khẩu mà còn góp phần nâng cao giá trị vải Tân Yên trên thị trường nội địa. Người tiêu dùng trong nước, đặc biệt tại các thành phố lớn ngày càng quan tâm đến tiêu chuẩn, nguồn gốc nông sản. Việc quét mã kiểm tra sản phẩm mang lại sự yên tâm và củng cố lòng tin đối với hàng Việt chất lượng cao.

Vùng trồng vải xuất khẩu xã Phúc Hoà, huyện Tân Yên (Bắc Giang). Ảnh: Phạm Minh.
Theo ghi nhận tại các hệ thống siêu thị và sàn thương mại điện tử, những lô vải được dán tem điện tử có truy xuất đầy đủ thường được ưu tiên trưng bày, quảng bá mạnh hơn và giá bán cũng cao hơn trung bình từ 10 - 15% so với sản phẩm chưa có mã vùng. Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy việc “làm chuẩn” trong khâu quản lý không những không làm tăng chi phí mà còn mang lại giá trị gia tăng bền vững cho người trồng.
Ngoài ra, thông qua tem QR, người tiêu dùng có thể tương tác trực tiếp với đơn vị sản xuất, từ đó hình thành mối quan hệ minh bạch, gắn kết giữa nông dân, nhà phân phối và khách hàng. Một số HTX tại Tân Yên còn tích hợp hình ảnh vườn, video chăm sóc và nhật ký sản xuất vào hệ thống truy xuất, tăng tính hấp dẫn cho sản phẩm vải chín sớm.
Không dừng lại ở đó, năm 2025, huyện Tân Yên sẽ phối hợp với ngành chức năng mở rộng áp dụng mã vùng sang các cây ăn quả khác như na, bưởi, hồng không hạt. Đồng thời nâng cấp hệ thống số hóa vùng trồng để đồng bộ dữ liệu, phục vụ kết nối với các nền tảng thương mại và kiểm định quốc tế.
Việc xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất điện tử và bảo hộ chỉ dẫn địa lý đang trở thành “vũ khí mềm” giúp vải Tân Yên vượt được rào cản kỹ thuật, hội nhập sâu với thị trường thế giới. Đây cũng là bước đi chiến lược trong lộ trình nâng cấp chuỗi giá trị nông sản mà Tân Yên đang quyết tâm thực hiện.