Đó là dấu mốc khai sinh ngành Khí tượng Thủy văn (KTTV) Việt Nam, một ngành khoa học đặc thù, gắn liền với đời sống nhân dân, sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và ứng phó thiên tai của đất nước.
Giữ vững mạch số liệu giữa bom đạn
Công tác khí tượng thủy văn là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, có tính đặc thù, liên vùng, liên ngành, xuyên biên giới, giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945–1954), phần lớn các trạm khí tượng, thủy văn ở miền Bắc phải ngừng hoạt động do chiến sự ác liệt. Nha Khí tượng cùng nhiều cán bộ của ngành KTTV đã lên chiến khu Việt Bắc, vừa tham gia kháng chiến vừa đào tạo cán bộ khoa học, chuẩn bị tài liệu huấn luyện chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tương lai của ngành.
Mạng lưới trạm điều tra cơ bản thủy văn ở miền Bắc giai đoạn những năm 60-70 của thế kỷ trước. Ảnh: Tư liệu Cục KTTV.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước bước vào thời kỳ hòa bình ở miền Bắc. Ngành KTTV nhanh chóng được khôi phục, phục vụ công cuộc kiến thiết đất nước. Từ những trạm ít ỏi do thực dân Pháp để lại, mạng lưới quan trắc được mở rộng dọc các vùng ven biển và trên các con sông lớn. Giai đoạn này, nhiều đoàn chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc đã sang giúp Việt Nam xây dựng trạm, tập huấn cho cán bộ, củng cố và phát triển công tác đều tra cơ bản về khí tượng thủy văn.
Năm 1959, Cục Thủy văn được thành lập trên cơ sở hợp nhất Phòng Thủy văn trong Cục Thiết kế (Bộ Thủy lợi) và các bộ phận Thủy văn từ Nha Khí tượng chuyển sang. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng bộ môn Vật lý địa cầu do Chính phủ giao và được sự giúp đỡ của Ba Lan, các trạm vật lý địa cầu Sa Pa, Phù Liễn với những thiết bị đo địa chấn, địa từ, điện khí quyển… đã được xây dựng. Các trạm đi vào hoạt động trước khi Đoàn Đại biểu Nha Khí tượng ở Việt Nam lần đầu tiên ra mắt thế giới tại Hội nghị Vật lý địa cầu quốc tế lần thứ V họp ở Matscơva (năm 1958). Sau 10 năm khôi phục và phát triển, với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và sự giúp đỡ của các nước bạn, ngành đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Đoàn cán bộ KTTV do GS Nguyễn Xiển dẫn đầu sang Liên Xô năm 1968. Ảnh: Tư liệu Cục KTTV.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và hết sức khó khăn trong thời kỳ này là duy trì cho được sự hoạt động liên tục của mạng lưới trạm KTTV, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, nhất là đối với tính mạng của quan trắc viên.
Nhiều trạm dã chiến được lập ngay trong vùng chiến sự, các quy trình đo đạc thời chiến được biên soạn và phổ biến khẩn trương. Dù gần 40% số trạm bị đánh phá, song không một trạm nào ngừng quan trắc. Những chuỗi số liệu vẫn được duy trì đều đặn, phục vụ công tác dự báo, phòng chống lũ bão, hỗ trợ chỉ huy chiến đấu và bảo vệ sản xuất. Bản lĩnh và tinh thần kiên định của người làm khí tượng thủy văn vẫn được truyền lại qua nhiều thế hệ cán bộ.
Theo Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn Hoàng Đức Cường, giai đoạn này, mạng lưới quan trắc của Việt Nam còn sơ khai, chủ yếu đặt tại những vị trí chiến lược để phục vụ cảnh báo bão, mưa lũ hoặc nghiên cứu khí hậu. Cán bộ làm việc với thiết bị thủ công, chưa có máy tính hay phần mềm xử lý số liệu. Mọi thao tác đều ghi chép bằng tay, tính toán bằng thước loga hoặc máy cơ học; dự báo chủ yếu dựa vào kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Họ phải thuộc quy luật thời tiết từng vùng, quan sát tỉ mỉ mây, gió, nhiệt độ, áp suất để suy đoán diễn biến. Việc truyền đạt thông tin từ trung tâm đến các trạm xa xôi gặp nhiều khó khăn, liên lạc chỉ qua điện báo Morse hoặc bộ đàm sóng ngắn.
Quan trắc viên thả dụng cụ quan trắc chất lượng nước bằng sắt xuống sông. Ảnh: Tư liệu Cục KTTV.
Dẫu trong điều kiện thiếu thốn, cán bộ khí tượng thủy văn vẫn bền bỉ duy trì hệ thống quan trắc liên tục, coi việc phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai là nhiệm vụ đặc biệt với sản xuất, quốc phòng và đời sống nhân dân. Chính sự tin tưởng, ghi nhận của xã hội đã trở thành nguồn động viên giúp họ gắn bó với nghề.
Xây dựng mạng lưới toàn quốc sau thống nhất
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Tổng cục KTTV thành lập trên cơ sở hợp nhất Nha Khí tượng và Cục Thủy văn theo Nghị định số 215/CP ngày 5/11/1976 của Chính phủ, mở ra bước ngoặt mới cực kỳ quan trọng trong lịch sử phát triển toàn diện của Ngành. Mạng lưới trạm tiếp tục được củng cố và phát triển trên phạm vi toàn quốc; các biện pháp bảo đảm dung lượng, chất lượng và từng bước hiện đại hóa công tác điều tra cơ bản về KTTV, môi trường không khí và nước được thực hiện tích cực.
Mạng lưới trạm được củng cố và mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Đến cuối thập niên 1980, các tỉnh phía nam đã thiết lập hơn 130 trạm khí tượng, thủy văn, hải văn, cùng hàng trăm điểm đo mưa, đo chất lượng không khí và nước, trải dài từ biên giới tây nam đến quần đảo Trường Sa.
Năm 1989, chuyên gia Liên Xô lắp đặt trạm Ra đa thời tiết đầu tiên MRL - 5 tại Đài Phù Liễn (Hải Phòng) theo chương trình hợp tác nghiên cứu về khí tượng nhiệt đới Việt Nam - Liên Xô. Ảnh: Tư liệu Cục KTTV.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh đất nước trường kỳ kháng chiến, mạng lưới trạm KTTV cũng thường xuyên lâm vào tình trạng hư hại; các loại vật tư kỹ thuật, máy đo thông dụng cũ kỹ, lạc hậu và thiếu triền miên không được bổ sung, thay thế; đời sống và điều kiện làm việc của quan trắc viên rất khó khăn. Từ năm 1987, chương trình mục tiêu “Đảm bảo dung lượng, chất lượng điều tra cơ bản” được thực hiện, kết hợp quy hoạch lại mạng lưới trạm, phát triển các trạm quan trắc môi trường không khí, nước, xây dựng trạm hải văn ĐK1-7 trên thềm lục địa và hai trạm khí tượng nông nghiệp tại các vùng trọng điểm lúa.
Đặc biệt, Chỉ thị 249-CT (1991) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã tạo cú hích, đưa ngành KTTV vào giai đoạn đổi mới. Thực hiện Chỉ thị quan trọng này, Tổng cục Khí tượng Thủy văn đã xây dựng đề án "Nâng cao năng lực và hiệu quả phục vụ kinh tế - xã hội của Ngành KTTV". Chương trình được triển khai mạnh từ năm 1992 đã giúp cải thiện chất lượng mạng lưới trạm và hoạt động quan trắc hiệu quả hơn.
Từ đầu thập niên 1990, cùng với sự phát triển của công nghệ số, ngành KTTV đã từng bước hiện đại hóa hệ thống dự báo: ứng dụng mô hình dự báo định lượng, mạng máy tính nghiệp vụ, trạm thu ảnh vệ tinh, tăng cường khả năng dự báo bão, mưa lớn và nhiều hình thái thời tiết cực đoan.
Nguyên Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng thăm và làm việc với Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia (năm 2006). Ảnh: Tư liệu Cục KTTV.
Sự kiện Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình KTTV được Quốc hội thông qua năm 1994 đã mở ra khuôn khổ pháp lý quan trọng, giúp ngành phát triển đồng bộ hơn. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, định hình rõ vai trò của KTTV trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường. Bước vào thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngành KTTV tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ. Mạng lưới quan trắc tự động ngày càng dày đặc, hệ thống radar thời tiết, đo mưa, đo mực nước, ảnh vệ tinh… được tích hợp đồng bộ.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm hiện đại
Với đặc thù là một ngành khoa học kỹ thuật có tính đồng bộ trên toàn cầu, một quốc gia đơn lẻ sẽ khó để thực hiện tốt công tác KTTV. Trong hàng thập kỷ qua, Việt Nam đã tranh thủ hỗ trợ công nghệ và đào tạo chuyên gia trong quan hệ hợp tác với Liên Xô và sau này là Liên bang Nga, Ba Lan hay Đức cùng các tổ chức quốc tế. Qua đó, góp phần hiện đại hóa mạng lưới trạm và nâng cao năng lực dự báo, đặc biệt là trong lĩnh vực mô hình hóa khí hậu và cảnh báo sớm.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác, chia sẻ thông tin dự báo thường xuyên với Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines, Anh và châu Âu. Đơn cử, trong siêu bão Yagi năm 2024, sự phối hợp chia sẻ dữ liệu giữa Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản đã giúp tăng đáng kể độ chính xác của dự báo quỹ đạo và cường độ bão, nhờ đó giảm thiểu thiệt hại cho người dân.
Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres tham quan phòng truyền thống ngành khí tượng thủy văn năm 2022. Ảnh: Khương Trung.
Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã chọn Cơ quan KTTV Việt Nam là Trung tâm dự báo hỗ trợ về thời tiết nguy hiểm và Trung tâm hỗ trợ cảnh báo lũ quét khu vực ASEAN, thể hiện sự ghi nhận uy tín và năng lực của chúng ta trong khu vực.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động mạnh đến Việt Nam, hệ thống dự báo, cảnh báo KTTV là “tuyến phòng thủ đầu tiên” trong phòng chống thiên tai. Hiện nay, hệ thống quan trắc KTTV quốc gia đã có 2.807 trạm KTTV trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Hàng trăm trạm quan trắc tự động được bổ sung cùng mạng lưới thông tin liên kết chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, cho phép phát đi cảnh báo nhanh hơn, chính xác hơn.
Cơ quan dự báo cũng đã tiếp cận các nguồn dữ liệu dự báo trên thế giới, đồng thời, ứng dụng các mô hình khu vực do Việt Nam trực tiếp vận hành vào phân tích nhằm xác định xu thế và diễn biến thời tiết trong tương lai. Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy cũng đang được ứng dụng trong mô hình dự báo lũ, khôi phục dữ liệu khí hậu, và hệ thống điều khiển thông minh phục vụ ra quyết định. Việc số hóa toàn bộ dữ liệu lịch sử khí hậu giúp cải thiện đáng kể độ chính xác của dự báo dài hạn, hỗ trợ quy hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu.
Từ chỗ tiếp nhận hỗ trợ quốc tế, chúng ta đã trở thành đối tác tin cậy, góp phần vào hệ thống dự báo khu vực và thế giới. Trong tương lai, khi biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ngành KTTV tiếp tục giữ vai trò then chốt - cung cấp tri thức khoa học để bảo vệ cuộc sống, phát triển bền vững và củng cố vị thế của Việt Nam trên bản đồ khí tượng thế giới.
















