Về với dân: [Bài 1] Những công bộc 'lội nước đi trước' ở Hồ Thầu

Về với Hồ Thầu lần này, Lý Chòi Nhàn mang theo quyết tâm sẽ khai thác địa danh Chiêu Lầu Thi - nóc nhà Hoàng Su Phì (Hà Giang cũ, nay là tỉnh Tuyên Quang) trở thành một lợi thế để phát triển du lịch, thu hút du khách tới bản làng… chứ không thuần túy chỉ là một đỉnh núi mà tự nó đã cao từ ngàn năm.

Trước khi về làm Bí thư Đảng ủy xã Hồ Thầu, Lý Chòi Nhàn là Phó Chủ tịch UBND huyện Hoàng Su Phì. Trước đó nữa, anh là Trưởng phòng Nông nghiệp huyện, chuyên môn gắn với trồng trọt, chăn nuôi…

Sau một thời gian chính quyền hai cấp Hồ Thầu đi vào hoạt động, chúng tôi là những nhà báo đầu tiên có mặt tại xã Hồ Thầu mới - đơn vị được hợp nhất từ 3 xã Hồ Thầu - Nam Sơn - Nậm Khỏa của huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang cũ, nay là tỉnh Tuyên Quang).

Nếu lấy Nam Sơn làm điểm trung tâm của một tam giác thì Nậm Khỏe - Hồ Thầu là hai điểm cuối của hai cạnh xa nhất. Trụ sở Đảng ủy xã Hồ Thầu gồm 2 khối nhà 3 tầng kiên cố: dãy nhà chính là phòng làm việc của Ban Thường vụ Đảng ủy; dãy ngang là các phòng ban Đảng, Mặt trận Tổ quốc... Một công trình khác đang hoàn thiện, theo kế hoạch trước hợp nhất, sẽ là trụ sở công an xã. Trong khi đó, khối ủy ban được sắp xếp tại trụ sở UBND xã Nậm Khỏe (cũ) - xã xa nhất. Trung tâm phục vụ hành chính công đặt tại trụ sở của UBND xã Nam Sơn - vị trí trung tâm nhất thuận tiện cho người dân đến thực hiện các thủ tục hành chính.

Phương án sắp xếp này, dù Lý Chòi Nhàn không nói ra nhưng chúng tôi hiểu được ý tứ sâu xa, là những gì tốt nhất, thuận tiện nhất cho người dân sẽ được ưu tiên đặt lên hàng đầu. Lãnh đạo Đảng ủy, Ủy ban chịu khó đi sâu, đi xa, vất vả hơn người dân…

Thoáng vẻ bối rối, Bí thư Đảng ủy xã Hồ Thầu dẫn chúng tôi vào một căn phòng kê hai chiếc giường cá nhân - chỗ nghỉ tối của chúng tôi đêm nay. Trước, nó vốn là phòng làm việc của UBND xã Hồ Thầu (cũ). Các cán bộ xã sau hợp nhất, giai đoạn đầu chưa có chỗ ăn nghỉ đều nghỉ tạm như vậy. Ngay như Bí thư Lý Chòi Nhàn, phòng nghỉ của anh cũng là phòng làm việc trước đây được hoán đổi, bên trong chưa có đồ dùng sinh hoạt gì. Những vật dụng cá nhân anh mang theo, từ tuýp kem đánh răng, gói xà phòng giặt tới cuộn giấy vệ sinh…, tất cả đều do vợ anh chuẩn bị từ ngoài thị trấn mang vào.

Sau hợp nhất, Hồ Thầu có diện tích gần 13.700 ha, dân khoảng 8.710 người được chia thành 25 thôn với 11 dân tộc anh em. Bộ máy của xã hiện có 58 cán bộ, công chức, giảm 20 công chức so với trước khi hợp nhất. Mô hình xã mới giống như bộ máy cấp huyện trước đây nhưng đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao hơn, khối lượng công việc đồ sộ hơn.

Chị Hoàng Thị Hạnh, anh Phượng Chàn Nu trước đều là Chủ tịch, Bí thư của một xã, nay người làm Phó Bí thư Đảng ủy, người là Phó Chủ tịch xã phụ trách Dịch vụ hành chính công; Phàn Văn Phấu - Phó Chủ tịch xã Nậm Khỏa được chỉ định làm Phó Chánh văn phòng Đảng ủy… Ai cũng hy sinh cái tôi vì nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Sau ít ngày hợp nhất, Lý Chòi Nhàn chỉ đạo tổ chức Hội nghị mở rộng tổng kết, rút kinh nghiệm công tác vận hành, hoạt động của chính quyền mới. Anh đã chia sẻ những điều tâm huyết với đội ngũ những người đang thực hiện vận hành bộ máy chính quyền đầy mới mẻ.

Trước đó, Lý Chòi Nhàn đã mời đội ngũ cán bộ thú y thôn bản gần 20 người đến trò chuyện, chia sẻ, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Trong bộ máy chính quyền mới không có vị trí việc làm của đội ngũ này, do đó khi sắp xếp nhân sự, các cán bộ thú y thôn bản 100% đều nghỉ việc ở nhà, khiến cả xã “trắng” cán bộ thú y cơ sở. Lý Chòi Nhàn đề nghị mọi người tiếp tục ở lại hỗ trợ xã công tác kiểm soát dịch bệnh chăn nuôi, giúp bà con phòng chống dịch bệnh. Nhất là trong bối cảnh dịch tả lợn châu Phi đang bùng phát ở nhiều địa phương trên cả nước; con trâu, con bò ở vùng núi là một gia tài, nếu không may mắc bệnh, các hộ dân sẽ mất ngay “đầu cơ nghiệp”. Cho nên, không thể một ngày bản làng lại “trắng” cán bộ thú y được. Rất nhiều người đã vui vẻ ở lại dù kinh phí hỗ trợ hằng tháng cho mỗi người không đáng là bao…

Thời gian làm Phó Chủ tịch huyện Hoàng Su Phì, phụ trách nông nghiệp, Lý Chòi Nhàn có công rất lớn cùng bà con gây dựng nên thương hiệu trà Hồ Thầu, với những hợp tác xã sản xuất chè đạt OCOP 3 sao, 4 sao, thậm chí 5 sao; Công ty “Trà Cổ Việt” được đích thân Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan (nay là Phó Chủ tịch Quốc hội) đặt tên, viết bài lan tỏa những giá trị, tri thức cộng đồng người Dao bản địa… Các xã Thông Nguyên, Hồ Thầu, Nam Sơn (cũ)... đã làm giàu từ cây chè.

Lợi thế lớn hơn khi Hồ Thầu đang sở hữu một quần thể rừng chè cổ thụ, mỗi cây tuổi đời hằng trăm năm, có hẳn một quần thể chè cổ thụ được gắn biển cây di sản. Xã còn “sở hữu” đỉnh Chiêu Lầu Thi - đỉnh núi cao nhất dãy Tây Côn Lĩnh, cao nhất Hoàng Su Phì. Danh thắng ruộng bậc thang, cây chè Hồ Thầu, một đại sơn hùng vĩ 2.402m so với mực nước biển…. - đó là những “tài sản” để chính quyền mới làm hành trang, giúp người dân làm kinh tế.

Với những kinh nghiệm tích lũy trong thời gian hằng chục năm công tác, phụ trách lĩnh vực nông nghiệp, Lý Chòi Nhàn khát vọng sẽ biến những lợi thế và cả những khó khăn về tự nhiên của Hồ Thầu làm động lực phát triển kinh tế, phát triển du lịch gắn với đỉnh Chiêu Lầu Thi.

Rất nhiều ấp ủ, rất nhiều kế hoạch vẫn đang chờ phía trước!

Phượng Chàn Nu là Phó Chủ tịch kiêm Giám đốc trung tâm phục vụ hành chính công xã Hồ Thầu mới. Sinh năm 1984, trước hợp nhất anh là Phó Chủ tịch UBND xã Pồ Cố - xã vùng biên sâu xa nhất của Hoàng Su Phì.

Phượng Chàn Nu phăm phăm dẫn chúng tôi lên đồi quế 5 năm tuổi, cây nào cây nấy đã cao quá đầu người, thân bằng cổ tay. Anh Nu là người đầu tiên đưa cây quế về xã Hồ Thầu trồng thí điểm, đến nay đã có nhiều người học theo, trồng theo. Diện tích quế của Hồ Thầu đã đạt hơn 10 ha - một điều trước nay chưa từng có trong số liệu báo cáo của xã.

Rồi cây sa nhân tím - một cây dược liệu cho giá trị kinh tế hơn 80 triệu đồng/ha. Dọc đường vào xã Hồ Thầu, hai bên rệ đường, ven suối, ven những con đường đất dẫn lên đồi, lên nương…, những khóm cây bụi rậm rì, lá dài, to hơn lá gừng, tốt bời bời. Cây sa nhân tím đấy!

Vạch một bụi cây ven đường, Phượng Chàn Nu ngồi thụp xuống, bới đất tìm củ non chỉ chúng tôi xem. “Loài cây này sống dưới tán rừng, rất dễ trồng mà không cần chăm sóc. Không chỉ giúp giữ đất, chống xói mòn đất, cây còn có tác dụng giữ nước, giữ ẩm... vì thế nó có rất nhiều tác dụng. Ở Hồ Thầu, rừng bủa vây xung quanh, Nhà nước đã giao khoán bảo vệ rừng cho từng hộ dân, do đó trồng sa nhân tím dưới tán rừng cũng là để bảo vệ rừng, mà lại có thu nhập", anh Nu giải thích.

Trong 2 - 3 năm đầu tiên khi mới trồng, bà con phải nhặt cỏ cho cây để giữ dinh dưỡng đất, từ năm thứ 3, sa nhân cho thu quả mỗi năm một lần, và không cần tới chăm bón phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật. Giá 1 kg quả sa nhân tím khô đang ở mức 600 - 700 ngàn đồng/kg, một ha cho thu tới 100 triệu đồng - hiệu quả vô cùng.

Loài cây này, Hồ Thầu cũng học hỏi mô hình bên Nàn Xỉn (huyện Xín Mần), Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) về để phổ biến cho bà con, tới nay toàn xã có 18 ha sa nhân.

Tiếp đó là cây lê đường. Phượng Chàn Nu lên Trung tâm Nghiên cứu giống cây ôn đới ở Phố Bảng (Đồng Văn) lấy thử cây lê giống về trồng. Cây lên khỏe, đậu quả, năng suất cao, thế là Hồ Thầu có lê ngọt, với trên 80ha.

“Cái gì mình thấy hay thì mang về làm thử. Thấy tốt rồi thì bảo bà con cùng làm, chứ không vội chưa biết nó như thế nào đã trồng đại trà thì không sửa được. Cây quế, cây lê, cây sa nhân… tôi cũng trồng thí điểm trên đồi nhà mình, được ăn rồi, chắc chắn rồi mới chỉ cho bà con. Đồi quế này, cứ cuối tuần tranh thủ ngày nghỉ là tôi gùi từng gùi cây giống lên trồng, vất vả, khó nhọc lắm. Mình làm cán bộ, mình phải lội nước đi trước để thăm dò đường, rồi sau đó phổ biến kinh nghiệm lại cho bà con, chỉ cho bà con cách làm”, anh Nu chia sẻ.

Hay như chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các hộ nghèo, anh Nu cùng các cán bộ xã đi khảo sát, vận động, tuyên truyền: đây là cơ hội để bà con có nếp nhà vững chãi che mưa che nắng, bà con gắng nhấn thêm một nhịp để quyết tâm có nhà mới.

"Đồng tiền Nhà nước hỗ trợ giống như thìa mì chính làm ngọt thêm nồi canh, vì thế không nên bị động, trông chờ vào Nhà nước, mà bản thân phải tự quyết tâm, nỗ lực", anh Nu nói chuyện với tôi trên con đường từ Hồ Thầu về Trung tâm dịch vụ hành chính công đặt tại xã Nam Sơn cũ. Một người dân đang đợi anh về để lấy xác nhận của địa phương vào lá đơn nhận học bổng dành cho cháu bé mồ côi, đang sống cùng với người bác họ…

Tôi vô cùng bất ngờ trước một chàng trai người Dao Hồ Thầu hiền lành, mấy năm trước xuống Hà Nội đi học nhưng “chưa bao giờ dám đi xe máy vì sợ đường Hà Nội đông, không dám sang đường”; bị “muỗi Hà Nội đốt” phải nhập viện điều trị nửa tháng trời vì sốt xuất huyết…, lại là một cán bộ xã nắm địa bàn rất sâu, rất sát, luôn là người mạnh dạn đi trước, tự lấy mình làm “chuột bạch”, mày mò học hỏi cây con gì mới rồi đều tìm cách mang bằng được về bản làng, giúp bà con cùng làm kinh tế.

“Mình phải đi trước, làm trước, thí điểm, thấy hiệu quả rồi mới chỉ cho bà con, bởi nếu không thành công sẽ thiệt hại kinh tế. Bà con mà mất niềm tin, lần sau nói lại sẽ khó lắm”, anh Nu nói.

Rất cần những cán bộ “lội nước đi trước” dò đường như Phượng Chàn Nu ở Hồ Thầu!

Mới hồi chiều, Bí thư Lý Chòi Nhàn dẫn các lãnh đạo chủ chốt trong Ban Thường vụ Đảng ủy xã, UBND xã lên thăm ông Phượng Quầy Phin - cán bộ lão thành của tỉnh. Ông Phin là người đã đi khắp cả nước, từ Tây Nguyên tới vùng miền Tây Nam Bộ trong gần 50 năm công tác. Năm 2008, nghỉ hưu, ông trở về quê hương, xã Hồ Thầu. Ông Phin từng là Chủ tịch huyện Hoàng Su Phì, rồi làm Đại biểu Quốc hội Khóa X, XI, Ủy viên Ủy ban Dân tộc Quốc hội...

Đến thăm ông Phượng Quầy Phin, những lãnh đạo của chính quyền cấp 2 mới mẻ này có một ý tứ riêng: đó là “ra mắt” một cán bộ lão thành, đồng thời cũng tìm hiểu tâm tư, tình cảm của đồng bào trước chủ trương, đường lối mà cả nước đang triển khai, vận hành. Một cách dân vận khéo léo, rất chuẩn mực của những người làm cán bộ ở vùng sâu, xa, ăn cùng mâm, uống chung một dòng suối với đồng bào.

Ngôi nhà của gia đình ông Phượng Quầy Phin nhìn ra một thung lũng rộng và bằng phẳng. Xung quanh nhà, những thửa ruộng bậc thang như bủa vây, xếp tầng. Cây lúa mới cấy chừng một tháng tuổi, đã cắm rễ khỏe khoắn và đang đẻ nhánh, cây nào cây nấy chắc đanh, lá chuyển màu xanh sẫm. Nước xăm xắp trên những chân ruộng bậc thang.

Người Dao Hồ Thầu có cách thức canh tác lúa nước rất riêng: những thửa ruộng bậc thang được đắp bờ cao hơn, bên trong các thửa ruộng sẽ khơi những rãnh nhỏ sát mép bờ, rồi thả cá giống nuôi cùng với lúa: cá chép, cá giếc, rô đồng… Sang tháng 9, tháng 10 thu hoạch lúa, cũng là lúc ruộng cạn nước được thu hoạch cá.

Cá nuôi trong ruộng lúa nước, lại là danh thắng ruộng bậc thang đã được xếp hạng, ở độ cao trên 1.000m, ăn sâu bọ, côn trùng diệt sâu cho lúa, lại sục sạo bùn giúp rễ cây lúa được kích thích sinh trường, lại giữ được nước ruộng… Bao nhiêu cái lợi trong một mô hình làm nông nghiệp đa canh.

Khi cơn mưa rừng bắt đầu ngớt hạt, bầu trời quang đãng rồi dần lấy lại vẻ trong xanh, ông Phượng Quẩy Phin dẫn chúng tôi lên khoảnh đồi sau nhà: bạt ngàn một vườn lê sai trĩu quả, những quả lê nặng trĩu đầu cành. Đây là vườn lê 5 năm tuổi, đã cho ông Phin thu hoạch sang năm thứ 3. Một ha trồng lê trả công cho ông lão người Dao yêu cây cối, yêu lao động này 86 triệu đồng - một số tiền không quá lớn nhưng cũng không quá nhỏ ở đất này.

“Những năm 70 - 80 của thế kỷ trước, dân bản vẫn canh tác những giống lúa bản địa, giống thuần, cây sinh trưởng dài ngày, năng suất thấp và phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. 1ha lúa được hơn 1 tấn, 1 năm chỉ cấy một vụ. Đói, dân phá rừng làm nương rẫy. Tình hình như thế không được. Nghèo, thiếu ăn quanh năm, mỗi năm chúng tôi phải ra xin tỉnh viện trợ cho 400 - 500 tấn lương thực/năm. Phải trồng thêm chè, lấy chè đi đổi lương thực về cho đồng bào. Muốn dân hết đói, phải thay đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi giống cây, thay đổi tập quán canh tác…”, ông Phin nói.

Đầu những năm 1990, ông Phượng Quầy Phin sang Trung Quốc tìm hiểu, tham quan các mô hình sản xuất nông nghiệp, học hỏi họ rồi về phổ biến cho dân bản. Cách làm của họ thì có thể bắt chước được, nhưng cây giống thì họ không cho. Thế là ông Phin ký kết hợp đồng mua giống mới mang về cho dân.

Giống lúa mới mang về, năng suất cao gấp 5 - 6 lần giống cũ, đạt 6 - 7 tấn/ha. 3 năm sau, quãng năm 1993 - 1994, dân Hoàng Su Phì đủ lương thực, hết đói. “Mình phải biết cách vận dụng để thay đổi đời sống người dân”, ông Phin khảng khái.

Sau giống lúa, ông Phin lại đưa cây đậu tương về Hồ Thầu.

"Tôi quan hệ cũng rộng, bạn bè học cùng trường Nông lâm sau đều là các chuyên gia nông nghiệp. Tôi mời họ lên giúp Hoàng Su Phì xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế. Ai cũng vui vẻ nhận lời".

Cây đậu tương đến và ở lại được với Hồ Thầu, giúp bà con xóa nghèo. Sau cây đậu tương, Hoàng Su Phì có thêm nhiều câu khác, những cây ăn quả giúp gia tăng giá trị đất đai. Những cây giống gắn với giai đoạn dài ông Phượng Quầy Phin làm lãnh đạo huyện.

“Hợp nhất nhiều xã về một, bỏ cấp huyện - cấp trung gian - chủ trương này là đúng quá rồi. Sáp nhập các xã nhỏ thành một xã lớn để có điều kiện hơn, tôi thấy đây là cách làm rất đúng, rất trúng. Chiều hôm qua, tôi có nói với các anh lãnh đạo xã, bây giờ công việc do xã trực tiếp điều hành, cán bộ phải sát dân hơn. Ngày xưa cấp huyện là cấp trung gian, tỉnh cũng là trung gian, xã là cấp trực tiếp làm, gần với dân, sát với dân. Chỉ đạo của Trung ương là rất đúng.

Sau một tháng điều hành, tôi thấy các cháu làm rất tốt rồi. Tôi bảo các cháu, trước mắt sẽ vất vả, khó khăn đấy. Nhưng mình phải tin mình làm được, phải khắc phục một thời gian thì sẽ quen, sẽ làm được hết. Kinh tế nông thôn là gốc rễ, cơ sở phát triển thì kinh tế cả xã hội phát triển, nên cán bộ xã phải đi sát dân, phải về với dân, nằm cùng với dân. Tổng Bí thư Tô Lâm bảo: nếu mình cứ ở trụ sở mà chỉ đạo thì sẽ quan liêu đấy, phải trực tiếp về nông thôn, xuống các thôn bản xem trưởng thôn chỉ đạo như thế nào, bà con sản xuất ra làm sao. Cứ ở xã điều hành thì không đúng đâu. Các cán bộ có tầm và có tâm sẽ làm được hết, không có gì khó. Nên tôi thấy chỉ đạo của Trung ương đúng và trúng lắm”, ông Phượng Quầy Phin tâm đắc.

Vị cán bộ lão thành cả đời gắn bó với mảnh đất Hồ Thầu động viên các lãnh đạo xã trẻ - thế hệ con cháu mình: “Địa bàn miền núi quê ta, khoảng cách giữa các thôn bản rất xa; nhiều cán bộ phải đi làm xa nhà vài chục cây số, hay cả trăm cây số…, nhưng trước mắt có công nghệ số rồi, thay cho cái chân không phải đi lại. Vùng cao thời gian qua Nhà nước đầu tư nhiều, đường sá cũng rất tốt, không còn khó khăn, vất vả như ngày trước. Các thôn bản có đường bê tông vào từng nhà, thuận lợi lắm… Nếu mình có sự quyết tâm, có tâm huyết với bà con thì không có gì khó cả!”.

Kiên Trung - Khương Trung
Tiến Thành
Kiên Trung - Khương Trung