Nước xuống, đời lên

Từng chìm trong cảnh ‘sống ngâm da, chết ngâm xương’ vùng đồng trũng khu vực các tỉnh Nam Định, Hà Nam cũ (nay là tỉnh Ninh Bình) đã vươn mình mạnh mẽ. Từ những ngày “chiêm khê mùa thối”, người nông dân giờ đây có thể canh tác ổn định, gieo trồng nhiều vụ mỗi năm. Đằng sau sự thay đổi ấy là những công trình thủy lợi bền bỉ, những ca trực trắng đêm của đội ngũ kỹ sư, công nhân đêm… Trước biến đổi khí hậu và thiên tai diễn biến ngày càng phức tạp, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà không chỉ là bệ đỡ cho sản xuất nông nghiệp mà còn là lá chắn bảo vệ cuộc sống của người dân.

Những buổi chiều đứng trên đê sông Châu hôm nay, nhìn những cánh đồng Hà Nam – Nam Định bằng phẳng, xanh thẫm, ít ai hình dung được nơi đây từng gắn với câu nói đầy ám ảnh: “Sống ngâm da, chết ngâm xương”. Cả vùng đồng chiêm trũng thường xuyên úng ngập, mùa mưa không có đường thoát nước, mùa khô lại thiếu nước tưới, khiến người dân sống trong cảnh bấp bênh kéo dài. Sự thay đổi của mảnh đất này bắt đầu từ những năm 1960 – thời điểm công cuộc trị thủy được Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng yếu, mở ra hành trình dài hơi để chủ động nguồn nước cho nông nghiệp đồng bằng.

Cuối năm 1961, công trình đại thủy nông Sông Biên Hòa được khởi công dưới sự chỉ đạo của Bộ Thủy lợi. Tuyến sông đào nối sông Châu với sông Đáy không chỉ tạo đường dẫn nước mới, mà còn phối hợp cùng hai trạm bơm Đinh Xá và Cổ Đam để bảo đảm tưới tiêu cho hơn 30.000 ha đất sản xuất ở Bình Lục, Thanh Liêm và Ý Yên. Việc hình thành “trục xương sống” này có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh địa hình toàn vùng trũng thấp, phụ thuộc dòng chảy tự nhiên và dễ tổn thương trước biến động khí tượng.

Đi cùng với công trình đầu mối, phong trào toàn dân làm thủy lợi lan rộng mạnh mẽ. Dưới sự hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng thanh niên xung kích, đội 202 và các hợp tác xã đồng loạt nạo vét kênh mương, củng cố bờ vùng, dựng trạm bơm dã chiến để chống úng cứu lúa. Những hoạt động này tạo ra hệ thống kênh tưới – kênh tiêu liên hoàn đầu tiên, đặt nền móng cho việc hình thành mô hình quản lý thủy lợi Bắc Nam Hà sau này.

Từ đầu thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, với sự hỗ trợ thiết bị từ Liên Xô, khu vực tiếp tục triển khai loạt công trình có tính chất nền tảng: Cốc Thành, Cổ Đam, Hữu Bị, Vĩnh Trị, Như Trác và Nhâm Tràng. Đây là hệ thống 6 trạm bơm điện lớn với tổng cộng 35 tổ máy công suất cao – một trong những tổ hợp cơ giới hóa hiện đại nhất miền Bắc thời điểm ấy. Hệ thống này đảm bảo tiêu úng cho hơn 85.000 ha và tưới ổn định cho 45.000 ha, qua đó chấm dứt tình trạng nhiều vùng bị “đọng nước quanh năm”, tạo điều kiện tăng năng suất lúa, mở rộng diện tích sản xuất và giảm thiệt hại trong mùa mưa bão.

Năm 1972, Công ty Thủy nông I được thành lập nhằm thống nhất quản lý các công trình lớn và bảo đảm vận hành đồng bộ theo lưu vực. Dù bộ máy ban đầu còn nhỏ, lực lượng kỹ thuật hạn chế, Công ty đã sớm trở thành đơn vị nòng cốt của tỉnh trong kiểm soát nước phục vụ sản xuất. Giai đoạn tiếp theo từ năm 1985 tới 1999 chứng kiến quá trình kiện toàn tổ chức và nâng cấp hệ thống: nhiều kênh chính, trạm bơm được sửa chữa, hiện đại hóa, giúp hệ số tưới tăng từ 0,8 l/s/ha lên 1,25 l/s/ha và hệ số tiêu từ 2,9 l/s/ha lên 4,5 l/s/ha. Đây là bước quan trọng nâng năng lực phòng chống úng hạn trong điều kiện thời tiết ngày càng cực đoan.

Hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà - "điểm tựa" cho những vụ mùa bội thu ở "rốn ngập" Ninh Bình. Video: Minh Phúc.

Năm 1999, hệ thống được bàn giao về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và mang tên Công ty Khai thác công trình thủy lợi Bắc Nam Hà. Khi chuyển đổi sang mô hình TNHH một thành viên (2008), Công ty bước sang giai đoạn chuyên nghiệp hóa vận hành, áp dụng quản trị theo tiêu chuẩn doanh nghiệp công ích, tăng cường giám sát kỹ thuật, hoàn thiện quy trình vận hành công trình đầu mối và mạng kênh tiêu – tưới cấp vùng.

Suốt 53 năm xây dựng và phát triển, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà không chỉ đóng vai trò điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất mà còn góp phần ổn định đời sống dân sinh. Nhiều vùng trũng sâu trước kia thường xuyên mất mùa nay sản xuất ổn định; các khu dân cư được bảo vệ tốt hơn trước mưa lớn; công nghiệp – thủ công nghiệp – làng nghề có điều kiện khôi phục và mở rộng. Cùng với đó, Công ty cũng tập trung nâng cao đời sống người lao động, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, quan tâm đào tạo lực lượng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu mới của ngành.

Những đóng góp ấy được ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Lao động hạng Nhì (1996), hạng Nhất (2002) và nhiều danh hiệu thi đua của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và chính quyền hai tỉnh Hà Nam – Nam Định.

Bước vào giai đoạn biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, Bắc Nam Hà đang đứng trước những yêu cầu mới về nâng cấp công trình, hiện đại hóa thiết bị, tăng khả năng tiêu úng nhanh, chống hạn chủ động và bảo vệ an ninh nguồn nước. Các thế hệ cán bộ của Công ty tiếp tục giữ vững truyền thống “chiến sĩ trị thủy”, kiên trì mục tiêu điều hòa nước phục vụ sản xuất và đời sống – tinh thần từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cách đây hơn nửa thế kỷ.

Trước những năm 1960, vùng đồng chiêm trũng Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình chìm trong cảnh "chiêm khê mùa thối". Mùa mưa nước tràn đồng, mùa khô đất nứt nẻ, cây lúa còi cọc, đói nghèo đeo bám. Dù được bao bọc bởi các con sông lớn như sông Hồng, sông Đào, sông Đáy nhưng tưới tiêu hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước xác định thủy lợi là nhiệm vụ cấp bách.

Ông Đinh Như Hiền (81 tuổi, xã Thanh Tân, Thanh Liêm, Hà Nam) cho biết: “Những năm 1960, 1970 dân ở đây 6 tháng đi tay, 6 tháng đi chân. 6 tháng đi tay tức là phải chèo thuyền. Dân làng ngoài chèo thuyền vào làng trong mà. Cấy được 1 vụ lúa thì ngập, mất mùa. Phải chèo thuyền vào trong rừng trồng khoai, trồng sắn mà ăn…”. 

Năm 1961, Nam Định và Hà Nam khởi công sông Biên Hòa, nối sông Châu với sông Đáy, cung cấp nước tưới cho hơn 30.000 ha lúa. Đây là công trình trọng điểm, đặt nền móng cho hàng loạt dự án thủy lợi sau này. Cùng lúc đó, phong trào toàn dân làm thủy lợi sôi nổi, huy động hàng vạn thanh niên, nông dân nạo vét kênh mương, xây trạm bơm. Không quản ngày đêm, người dân hăng hái tay cuốc, tay xẻng, đắp đập, be bờ, từng bước cải thiện năng suất lúa và đảm bảo an ninh lương thực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần về thăm Nam Định, Hà Nam (1958, 1959), trực tiếp động viên nhân dân làm thủy lợi. Người viết báo kêu gọi phát triển thủy lợi, nhấn mạnh vai trò các đội chuyên trách. Nhờ đó, phong trào lan rộng, tạo nên nhiều kỷ tích. Những đội thanh niên xung phong hăng say trên công trường, các bà, các mẹ miệt mài tiếp sức cho lực lượng lao động.

Năm 1967, Nam Định đạt 5 tấn thóc/ha, đánh dấu bước ngoặt lịch sử, không chỉ đủ ăn mà còn hỗ trợ các địa phương khác. Những năm 1970, phong trào thủy lợi phát triển mạnh với hệ thống hồ chứa, trạm bơm điện, kênh mương kiên cố. Đồng trũng ngày nào nay thành vùng lúa phì nhiêu, kết hợp chăn nuôi, trồng màu giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Thủy lợi còn thay đổi diện mạo nông thôn: Đường làng hết lầy lội, nông nghiệp thuận lợi kéo theo nuôi trồng thủy sản, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Ông Trần Xuân Bách (Giám đốc Công ty Thủy lợi Bắc Nam Hà) nhận định: “Ban đầu, hệ thống phục vụ tưới tiêu, nay còn góp phần ổn định dân sinh, phòng chống thiên tai.”. Đến nay, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà vẫn tiếp tục phát huy tác dụng, đảm bảo mùa màng bội thu, tạo nền tảng phát triển bền vững. 

Phía sau sự vận hành ổn định của hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà là đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân của công ty – những người ngày đêm bám trụ tại các trạm bơm, cống điều tiết, đảm bảo dòng nước luôn chảy đúng hướng. Công việc của họ không chỉ đơn thuần là giám sát hoạt động của máy móc mà còn đòi hỏi khả năng xử lý nhanh chóng các sự cố, đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống.

Những ca trực xuyên đêm trở thành chuyện thường nhật. Mùa mưa bão, khi nước dâng cao, áp lực đặt lên các trạm bơm là rất lớn. Đội ngũ kỹ thuật phải theo dõi sát sao từng thông số, chủ động vận hành các trạm bơm để điều tiết nước, giảm thiểu tối đa nguy cơ ngập úng.

Đặc biệt trong mùa mưa bão, công việc của những cán bộ tại các trạm bơm lại thêm phần khó khăn. Tại trạm bơm điện Nhâm Tràng – 1 trong số những trạm bơm trọng yếu của hệ thống, những ngày bão Yagi về, cũng là ngày những cán bộ ở đây trắng đêm canh nước cùng bà con.

Ông Tống Công Báu (Trạm trưởng trạm bơm điện Nhâm Tràng) cho biết: “Bắt đầu từ đêm 9/9, mưa lớn, nước sông dâng cao. Thiết kế công trình chỉ là 4,5m tuy nhiên nước sông dâng lên đến 4,8m. Trạm bơm thì thiếu nhân lực. Một người làm việc bằng 1,5 mới đảm bảo được. Cả đêm các cán bộ thủy nông đều thức trắng, canh nước xuống để bơm tiêu kịp thời, đèn pin chưa bao giờ tắt trong những ca như vậy. Ai cũng mệt nhưng vui vì tiêu được nước, cứu được lúa cho bà con…”. 

Ngược lại, vào mùa khô, công tác điều phối nguồn nước tưới cũng cần được tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo cân bằng giữa các khu vực.

Hệ thống thủy lợi chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được vận hành trơn tru, đồng bộ. Đó là lý do vì sao công tác bảo trì, nâng cấp các công trình luôn được công ty chú trọng. Đội ngũ công nhân kỹ thuật liên tục kiểm tra, sửa chữa các tổ máy bơm, kênh mương và cống điều tiết để đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định, đặc biệt là trước những diễn biến khó lường của thời tiết.

Mỗi năm, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà trải qua những đợt kiểm tra, bảo trì lớn, đặc biệt sau mùa mưa bão và trước vụ gieo cấy quan trọng. Họ duy tu, bảo dưỡng tổ máy tại các trạm bơm thường xuyên. Công tác vớt rác, bèo, được diễn ra thường xuyên nhằm đảm bảo dòng chảy cho trạm bơm. 

Ông Trần Trung Tuyến (cán bộ kỹ thuật của Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Nam Hà) nhớ lại thời gian bảo trì: “Những tổ máy này khi bảo trì, bảo dưỡng là phải tháo rời hết các bộ phận, lau chùi kỹ. Đặc biệt, phải đảm bảo đến mùa là các tổ máy đều hoạt động tốt để bơm tiêu, chúng tôi phải giám sát từng thông số, đo mực nước, kiểm tra khả năng vận hành của từng bộ phận, đảm bảo không có sự cố xảy ra trong mùa cao điểm.”.

Dù ngày hay đêm, dù mưa hay nắng, họ vẫn lặng yên làm công việc của mình, để nước tiếp tục giữ xanh những cánh đồng, mang theo sự trù phú và hy vọng.

Bên cạnh đó, công ty cũng không ngừng đổi mới công nghệ, áp dụng các hệ thống tự động hóa để nâng cao hiệu quả vận hành. Nhờ vậy, việc điều tiết nước trở nên chính xác hơn, giúp tối ưu hóa nguồn nước tưới và tiêu úng cho khu vực rộng lớn.

Năm 2024, thời tiết và thủy văn tiếp tục có nhiều diễn biến bất thường, tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Đợt hạn hán kéo dài từ đầu năm đến tháng 5 khiến mực nước tại nhiều sông, hồ ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ giảm sâu, thấp hơn trung bình nhiều năm. 

Đặc biệt, lượng mưa ở đồng bằng sông Hồng thiếu hụt 20-30%, gây khó khăn cho vụ đông xuân và hè thu. Không chỉ đối mặt với khô hạn, các tỉnh ven biển còn chịu ảnh hưởng của tình trạng xâm nhập mặn gia tăng, khiến việc lấy nước phục vụ sản xuất càng trở nên nan giải.

Trước những thách thức đó, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà tiếp tục phát huy vai trò quan trọng, trở thành “lá chắn” giúp ổn định nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt. Đây là một trong những hệ thống thủy lợi có vai trò quan trọng bậc nhất khu vực miền Bắc, phục vụ tưới tiêu cho hơn 200.000 ha đất nông nghiệp tại Hà Nam và Nam Định.

Điểm đặc biệt của hệ thống là vận hành hoàn toàn bằng bơm động lực, giúp các trạm bơm chủ động lấy nước tưới tiêu và tiêu úng mà không phụ thuộc vào mực nước tự nhiên. Ông Trần Xuân Bách (Giám đốc Công ty Thủy lợi Bắc Nam Hà) cho biết: “Hệ thống bơm động lực giúp kiểm soát nguồn nước hiệu quả hơn, chủ động hơn, giảm thiểu tình trạng hạn hán, ngập úng và đảm bảo sản xuất nông nghiệp ổn định”.

Không chỉ đảm bảo nước tưới tiêu trong mùa khô, Bắc Nam Hà còn đóng vai trò quan trọng trong công tác chống úng, bảo vệ mùa màng trong mùa mưa lũ. Đợt mưa lớn tháng 7/2024 do ảnh hưởng của hoàn lưu bão Yagi khiến mực nước sông Đào dâng cao, đe dọa nhiều khu vực sản xuất nông nghiệp. 

Những cán bộ thủy nông là những người canh giữ dòng chảy, giữ nhịp sống của cả một vùng đất.

Trạm bơm Cốc Thành, một trong những điểm trọng yếu của hệ thống, đã phải vận hành liên tục để tiêu úng. Ông Bùi Văn Giáp (Trạm trưởng trạm bơm điện Cốc Thành) chia sẻ: “Khi mực nước vượt ngưỡng an toàn, chúng tôi buộc phải đóng cửa xả để ngăn nước tràn ngược vào đồng ruộng. Sau 2-3 ngày tích cực bơm tiêu, nước rút dần, giúp hàng ngàn ha lúa và hoa màu thoát khỏi nguy cơ mất trắng.”.

Ngoài chức năng tưới tiêu và tiêu úng, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước thô cho các khu công nghiệp, nhà máy sản xuất cũng như phục vụ hoạt động nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt trong mùa khô khi nguồn nước ngầm suy giảm nghiêm trọng, hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà giúp đảm bảo duy trì sản xuất, ổn định an ninh lương thực, phát triển kinh tế và đảm bảo sinh kế cho người dân.

Ông Hiền bộc bạch về sự thay đổi của vùng đất: “Bây giờ, có cái trạm bơm này, không bị ngập nữa. Cấy được mấy vụ, chứ không được 1 vụ mà lại mất mùa như trước…”. 

Hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà không chỉ là huyết mạch của sản xuất nông nghiệp mà còn là yếu tố quan trọng đảm bảo đời sống dân sinh trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt. Để phát huy tối đa vai trò của hệ thống, cần có chiến lược dài hạn, tập trung vào đầu tư hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ nguồn nước trong cộng đồng. Có như vậy, Bắc Nam Hà mới tiếp tục là bệ đỡ vững chắc cho sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân khu vực đồng bằng Bắc Bộ trong những năm tới.

Minh Phúc - Hùng Khang
Trọng Toàn
Minh Phúc
Minh Phúc
Xem thêm