Đến làng Quỳnh Sơn, tiếng then vẫn ngân nga từ chiếc tivi cũ trong căn nhà nhỏ cạnh đình chùa. Màn hình đôi lúc sọc ngang, loang loáng. Nhưng làn điệu Tày thì rõ ràng, ấm áp. Hai ông lão ngồi đó, vừa trông đình, trông chùa, vừa nhắc lại chuyện xưa của làng.
Ở những nơi như Quỳnh Sơn, chuyện hay không thiếu. Người già nhớ nhiều, kể rành rọt. Cái khó là làm sao ghi lại cho đủ, sắp xếp cho mạch lạc, để ai nghe cũng hiểu. Giảm nghèo thông tin bắt đầu từ việc ấy: chép lại lời kể, đối chiếu mốc thời gian, giữ ảnh tư liệu, viết vài dòng giới thiệu gọn gàng đặt ở đình chùa, để người trong làng đọc được và khách đến cũng nắm được.
Khu đình, chùa của làng Quỳnh Sơn,xã Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) nằm trên một gò đất cao, không cổng, không tường bao. Đình có mái ngói rêu phong, chùa che tạm bằng tấm bạt xanh còn mới, nép giữa tán khế, tán đa già. Bên cạnh là một căn nhà cấp bốn nhỏ, dựng để làm kho đồ lễ và làm chỗ nghỉ chân cho khách, cho người canh đền.
Tất cả ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày ở làng Quỳnh Sơn đều quay về hướng Nam. Ảnh: Tùng Đinh.
Khu đình, chùa làng Quỳnh Sơn nép dưới tán đa cổ thụ, nơi lưu giữ huyền tích. Ảnh: Tú Thành.
Trong gian nhà, hai ông lão ngồi trước chiếc tivi đang réo rắt tiếng then. Đó là ông Dương Công Thông (SN 1943, thôn Đon Riệc 2) và ông Dương Công Quang (SN 1938, thôn Thâm Pát), hai người cùng nhau trông nom đình và chùa làng.
Nhắc chuyện về nguồn gốc làng Quỳnh Sơn, ông Quang chậm rãi kể: Từ thuở xa xưa, làng này đã được định hình, và công lao đó thuộc về một vị tiên tổ kiệt xuất tên là Dương Tự Minh.
"Thời Lý, ông Dương Tự Minh vốn là một tướng giỏi, từng đánh tan quân Tống xâm lược lần thứ nhất, sau đó được phong làm phò mã. Quân Tống lần hai sang xâm lược nước ta, ông cũng đuổi được, bắt sống tướng địch là Đàm Hữu Lượng", ông Quang kể.

Xong trận, ông Dương Tự Minh rời quê từ Quán Triều (Thái Nguyên) tìm về những miền sơn cùng, ngõ hẻo, vùng dân nghèo mà dạy họ làm ăn. Đi đến vùng núi này (Bắc Sơn), thấy đất đai xanh tươi bát ngát giữa rừng thiêng, ông ở lại chỉ bảo dân hai bên suối cách cày cấy, trồng bông, nuôi tằm, quay tơ, dệt lụa. Và vì rừng núi còn bạt ngàn thú rừng, ông dạy người dân làm nhà sàn, lưng tựa vào núi, hướng nhìn ra suối. Dưới gầm sàn, trâu bò, lợn gà được nhốt, tránh thú dữ. Ông còn nhắc cho mọi người nhớ: "Tiền đê, hậu cao, con cháu làm ăn dạt dào thịnh vượng".
Sau khi ông mất, dân làng dựng đình thờ để tưởng nhớ. Mà có đình thì phải có chùa, để Phật phù hộ cho mùa màng tươi tốt, muôn loài bình an. Vì vậy, đình và chùa mới thành đôi suốt đến nay".
Theo kể lại, kiến trúc và nhiều vật liệu xây dựng đình Quỳnh Sơn đã có từ thế kỷ XII. Ảnh: Tú Thành
Ông nói tiếp: "Đình được thành lập từ thời nhà Lý (thế kỷ XII) rồi đấy. Ngày đầu dựng, người ta từng làm gần chân núi kia. Sau thấy chỗ đó chật hẹp, thầy địa lý khuyên di dời lên gò này vào thế kỷ XV".
Từ câu chuyện về ông Dương Tự Minh và ngôi đình, ông Quang chậm rãi đứng dậy, bảo tôi: "Ra chỗ chùa mà xem". Ngày xưa, đó là một chùa lớn, có 102 pho tượng, phía trước là hội trường rộng 5 gian, 2 trái, mái ngói âm dương uốn cong như cánh chim đậu trên sườn núi. Đến năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của vùng này cũng diễn ra trong chính ngôi chùa ấy.
Ông Dương Công Quang (bên trái) và ông Dương Công Thông chia sẻ về ngôi chùa với những vật liệu còn lại được dựng tạm bên cạnh ngôi đình. Ảnh: Hùng Khang.
Ông Dương Công Thông ngồi bên cạnh chêm thêm: "Sau bầu cử, có ông cán bộ trung ương về mít tinh ở đây. Ông ấy đứng giữa sân chùa, vận động dân góp tiền bạc, thóc gạo cho kháng chiến. Tối thì vào chùa ngủ, sáng hôm sau lại khăn gói đi qua núi Gò Mô, Thẳm Thuẩn, ngược lên Lạng Sơn rồi về Pắc Bó, Cao Bằng phục vụ kháng chiến".

Năm 1950, chiến dịch Biên giới nổ ra. Chùa bỗng hóa thành trạm trung chuyển thương binh từ mặt trận được cáng về. Sau sơ cứu, họ lại tiếp tục được đưa về vùng an toàn ở Thái Nguyên. Máy bay Pháp phát hiện ra dấu vết, thả bom xuống khu vực chùa. May thay bom không trúng thương binh, không chạm vào người sống, chỉ đánh sạt vào mái chùa, làm sập một phần, vỡ nhiều tượng Phật.
Thời kháng chiến chống Pháp, dưới gốc đa cổ trước sân chùa là chợ phiên. Người ta họp chợ, bán gạo, bán mắm, vải thô... Sau đó, Nhà nước dùng chùa làm nơi mở lớp công nông, bồi dưỡng trình độ cho cán bộ đi lãnh đạo các tỉnh trong khu Việt Bắc. Đến thời chống Mỹ, chùa lại đổi vai, thành kho muối, thành cửa hàng hợp tác xã đem vải vóc, ấm chén lên bán cho dân sơ tán.
Những chuyện như vậy, nếu chỉ kể miệng thì dễ rơi rớt theo năm tháng. Người nhớ nhiều, nhưng mỗi người nhớ một đoạn. Việc cần làm là ghi lại cho đầy đủ, có mốc thời gian, có nhân chứng, có ảnh tư liệu, rồi giới thiệu cho khách nghe, cho học sinh trong làng biết, đó là một cách làm rất cụ thể để giảm nghèo thông tin, biến ký ức thành tư liệu dùng được, truyền lại được.
Rời khu đình chùa, tôi men xuống thung lũng. Lúa cuối vụ đã gặt gần xong, rạ còn thơm nắng, những đám bị bão quật nằm rạp xuống chân ruộng. Trên nền vàng úa ấy, những ngôi nhà sàn nối nhau tăm tắp, lưng tựa núi, mặt nhìn ra cánh đồng.
Tôi tìm đến nhà ông Dương Công Đỗ, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn Thâm Pát. Cửa khóa hờ. Hàng xóm bảo: “Ông Đỗ ra đồng phục vụ Lễ hội Mùa vàng rồi. Cả làng đang gặt lúa, giã gạo, gói bánh, đón khách bay dù ngắm thung lũng vàng…”.

Không gặp được trưởng thôn, tôi gặp ông Dương Công Đã (SN 1950) - bố đẻ ông Đỗ. Người làng bảo: "Ông ấy nói năng có đầu có cuối, việc làng việc nước rõ ràng, là người uy tín trong làng".
Nghe tôi nói muốn tìm hiểu về làng người Tày họ Dương đặc biệt này, ông tươi cười: “Lên nhà đã. Lên nhà ngồi rồi nói chuyện”.
Cầu thang gỗ mòn vẹt, bóng nhẵn. Căn nhà bưng kín, bàn thờ gỗ đặt trang trọng đối diện cửa vào. Ông rót chén chè mở đầu câu chuyện: “Làng Quỳnh Sơn có 5 thôn: Tân Sơn, Nà Riềng, Thâm Pát, Đon Riệc 1, Đon Riệc 2. Cả làng có hơn 400 nóc nhà, đều quay về hướng Nam. Dân gốc ở đây 100% là người Tày, người khác dân tộc chủ yếu là dâu, rể từ nơi khác về. Ngày xưa, nhà nào cũng làm nông nghiệp, trồng lúa nước, ngô, sắn… Dưới gầm sàn thì nuôi gà, nuôi lợn, nuôi trâu, tự cung tự cấp".
Ông Dương Công Đã, người uy tín trong cộng đồng dân cư thôn Thâm Pát, làng Quỳnh Sơn. Ảnh: Tú Thành.
Nói về nếp nhà sàn của người Tày ở đây. Ông Đã chỉ tay ra cửa sổ: “Hồi trước, nhà sàn không kín như bây giờ đâu. Vách đan bằng thân mai chẻ, gió luồn khắp sàn. Cột thì gỗ nghiến, gỗ lý. Rừng quanh làng nhiều gỗ tốt lắm. Khu vực Lân Vắn, Lân Chang, Búp Thuất, Lân Á… toàn cây thân to mấy người ôm.
Ông nhắc đến những năm 1960-1970, khi bà con trồng cây thuốc lá và lò ngói âm dương rộ lên: “Lò sấy thuốc, lò ngói đỏ lửa ngày đêm. Đốt lò thì chặt gỗ rừng bừa bãi, gỗ quý cũng đem đun. Rừng cứ thế mà thưa dần. Sau này có gas, có điện, dân bớt dùng củi, rừng mới có cơ hội phục hồi lại”.
Trong ký ức ông Đã, Quỳnh Sơn ít biến cố lớn. Núi bao quanh nên bão gió thường đi chệch, chỉ thi thoảng mưa to, nước dâng ngoài đồng. Thiên tai nặng nhất mà ông nhớ là trận lốc cuốn nhấc bổng hai ngôi nhà sàn khỏi tảng đá kê cột: “Trong làng thì chủ yếu bay mái ngói thôi. Nhưng nhìn hai cái nhà bị nhấc lên, ai cũng sợ. Thế mới thấy nhà sàn người Tày chắc, khung toàn gỗ tốt”.
Tôi hỏi: “Nhà quay cùng một hướng, dân lại toàn họ Dương, trai gái trong làng lấy nhau thế nào?"
Ông Đã cười bảo: “Cả làng này là họ Dương. Nhưng có ba nhánh: Dương Công, Dương Đình, Dương Doãn. Trong mỗi nhánh lại chia nhiều chi. Cùng nhánh, cùng chi thì không lấy nhau, khác chi thì được”.
Ông giải thích như đang đứng lớp: “Dương Công với Dương Công, nếu cùng một chi thì coi như anh em, cấm kỵ. Nhưng Dương Công nhánh trên với Dương Công nhánh dưới là khác chi, nếu gia phả cho phép thì nên vợ nên chồng được. Dương Công với Dương Đình, Dương Doãn thì thoải mái. Luật mới cho ba, bốn đời là được, nhưng ở đây vẫn theo gia phả. Cái gì các cụ dặn thì không bỏ”.
Nhà thờ tổ dòng họ nhánh Dương Công - một trong ba nhánh họ Dương trong làng Quỳnh Sơn. Ảnh: Hùng Khang.
Bà Dương Thị Tòa (SN 1952), vợ ông Đã, từ trong buồng bước ra. Bà cũng thuộc nhánh Dương Công, nhưng là “nhánh trên”. Bà ngồi xuống tiếp lời ông Đã: “Hồi ấy bố mẹ gả. Biết mặt nhau thôi, chứ chẳng yêu đương như bây giờ. Năm 1967 cưới xong, tôi vẫn ở nhà tôi, ông ấy ở nhà ông ấy. Ông đi học, đi công tác. Mãi đến năm 1975, bố mẹ hai bên mới sắm cái hòm gỗ, mấy bộ quần áo, bảo cho về ở với nhau. Lúc ấy mới bắt đầu nuôi con”.
Ở Quỳnh Sơn, người ta dựng nhà theo lời ông tổ Dương Tử Minh, dựng vợ gả chồng theo cuốn gia phả. Những điều ấy, nếu được ghi chép đầy đủ và giới thiệu rõ ràng, sẽ thành bản sắc có tư liệu, giúp khách hiểu vì sao cả làng quay một hướng, vì sao người ta giữ nhà sàn, vì sao gia phả được coi trọng. Câu chuyện rõ ràng thì người nghe mới nắm được, mới nhớ được.
Từ nhà ông Dương Công Đã men xuống Nà Riềng, những mái nhà sàn gỗ vẫn hướng Tây Nam, ngói âm dương xếp đều như vảy cá. Chỉ khác xưa ở mấy tấm biển nhỏ treo trước hiên: “Homestay - Nhà nghỉ du lịch cộng đồng”.
Du lịch cộng đồng ở Quỳnh Sơn bắt đầu khoảng năm 2010, cũng là lúc ông Dương Công Chài nghỉ hưu, khép lại 39 năm làm kiểm lâm. Nhà sàn của ông dựng từ năm 1930, cột nghiến, cột lý đã lên nước bóng.
Căn nhà sản của gia đình ông Dương Công Chài ở thôn Nà Riềng được xây dựng từ năm 1930. Ảnh: Tú Thành.
“Năm ấy, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh về khảo sát, bảo chọn Quỳnh Sơn làm làng văn hóa du lịch cộng đồng. Tôi nghĩ, nhà mình là nhà sàn cổ, còn chắc, còn rộng, nên mạnh dạn đăng ký”, ông Chài chia sẻ.
Gia đình ông trở thành 1 trong 5 hộ đầu tiên làm du lịch cộng đồng. Hồi đó, chữ “homestay” còn lạ miệng, người làng gọi trẹo thành “hôm-sây, hôm-sì-tây”.
Theo ông Chài, khi bắt tay vào làm du lịch, thay đổi rõ nhất bắt đầu từ… gầm sàn. Trâu bò, lợn gà được dời ra khu riêng. Gầm sàn quét dọn, lát nền sạch sẽ, thành không gian sinh hoạt chung, nhà vệ sinh xây tách, ốp gạch sáng, nước sạch đầy đủ. Người làng sau hay đùa rằng, làm du lịch cũng là “cải cách lại cái nếp ở”.
Giờ ở Quỳnh Sơn có hơn 10 hộ làm homestay, mỗi nhà tự bỏ vốn sửa sang, chắt chiu từng năm. Ông Chài bảo: "Thấy người ta mang tiền lên núi thì mừng chứ. Con cháu mình có việc làm, khách đến thì phải có người nấu ăn, dọn phòng, dẫn đường… tạo thêm thu nhập".
Nhưng ông cũng canh cánh, để phát triển du lịch một cách bài bản, bền vững, cần có định hướng, chính sách rõ ràng: Mai này mỗi nhà xây một kiểu, nhà bê tông quay hướng khác, bỏ nhà sàn. Thế là làng mất cái hồn. Muốn bảo tồn thì phải có cơ chế cụ thể. Nhà nào là nhà cổ phải gắn biển, ghi nhận. Nếu mỗi nhà một phách thì lâu dài không biết sẽ ra sao.
Những mái nhà sàn quay cùng một hướng, ôm lấy ruộng vườn và ao hồ giữa thung lũng Bắc Sơn. Ảnh: Tùng Đinh.
Ở làng Quỳnh Sơn, nhà về một hướng, mỗi con người, mỗi gia đình trong cùng gia phả họ Dương, vẫn giữ tiếng Tày trong câu nói thường ngày. Chỉ khác là, trong tiếng nói ấy, bây giờ có thêm tiếng chào "hello" của những gia đình làm du lịch, thêm tiếng cười của những người từ rất xa đến, ngạc nhiên vì giữa một thung lũng nhỏ lại có một làng mạc được gìn giữ cẩn thận đến thế.
Hơn nữa, bà con biết dựa vào nhau để làm ăn, cùng giữ nếp làng và tìm thêm sinh kế. Số hộ nghèo vì thế giảm dần qua từng năm. Điều còn thiếu dễ thấy nhất là cách làm thông tin cho bài bản: Quảng bá, giới thiệu cho rõ ràng về làng, về văn hóa, các lễ hội truyền thống, và cả những sản vật địa phương... Khi câu chuyện được viết lại mạch lạc, có tư liệu, có kênh giới thiệu ổn định, Quỳnh Sơn sẽ đón khách đều hơn, làm du lịch phát triển hơn, mà vẫn giữ được cái nếp, bản sắc riêng của làng.





