Như báo Nông nghiệp và Môi trường đã đưa tin, nếu ở Bài “Nông nghiệp Đông Tiên Hưng khởi sắc nhờ tri thức cộng đồng”, bức tranh kinh tế xã Đông Tiên Hưng (tỉnh Hưng Yên) hiện lên qua những định hướng chung và vai trò dẫn dắt của chính quyền, hợp tác xã, thì ở một góc ruộng cụ thể, câu chuyện ấy được tiếp nối bằng những mô hình rất đời thường. Khu nhà lưới trồng dưa chuột baby của gia đình anh Phạm Văn Tài (thôn Khuốc Bắc) là một ví dụ, nơi tri thức được sẻ chia để nhiều hộ cùng phát triển kinh tế.
Bà Quách Thị Thêu (thôn Khuốc Bắc) cho biết gia đình bà luôn sẵn sàng đón bà con trong vùng đến tham quan, học hỏi mô hình trồng dưa chuột baby. Ảnh: Mai Đan.
Nhà lưới mở ra cách làm mới
Nhắc lại quãng thời gian trước đây, anh Phạm Văn Tài không giấu được nỗi trăn trở. Suốt nhiều năm, gia đình anh cũng như phần lớn bà con trong vùng trồng dưa chuột theo phương thức truyền thống. Mọi công đoạn đều phụ thuộc vào thời tiết, sâu bệnh, đầu ra thì bấp bênh. Có vụ được mùa nhưng giá thấp, có vụ sâu bệnh nhiều, công sức bỏ ra chẳng thu lại là bao.
Chính từ thực tế đó, anh bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc thay đổi cách làm. Khi chứng kiến bạn bè và một số nông dân ở địa phương khác mạnh dạn ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kiểm soát được thời tiết và dịch hại, anh Tài quyết định đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình hiệu quả.
Sau thời gian tìm hiểu, anh Tài mạnh dạn vay vốn ngân hàng, đầu tư khoảng nửa tỷ đồng để cải tạo vườn, dựng khung nhà lưới trên diện tích hơn 2.000m², lắp đặt hệ thống tưới nước tự động và lựa chọn giống dưa chuột baby phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng địa phương. Trên diện tích ấy, anh trồng hơn 3.500 gốc dưa, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cách làm nông nghiệp của gia đình.
Thời điểm đó, không ít người còn băn khoăn, lo lắng thay cho anh. Nửa tỷ đồng với nông dân là khoản đầu tư rất lớn, rủi ro cũng không nhỏ. Nhưng anh Tài tin rằng, nếu không thay đổi, cái vòng luẩn quẩn “được mùa - mất giá” sẽ còn lặp lại.
Qua 4 năm gắn bó với mô hình trồng dưa chuột baby trong nhà lưới, những lo lắng ban đầu dần được thay thế bằng sự chủ động. Nhờ hệ thống nhà lưới, anh Tài kiểm soát tốt côn trùng, dịch hại, giảm đáng kể chi phí thuốc bảo vệ thực vật. Việc tưới nước và bón phân được điều tiết hợp lý theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây, giúp cây phát triển đồng đều, năng suất ổn định.
“Trồng trong nhà lưới, gia đình tôi chủ động được thời vụ, không còn quá lo mưa gió hay nắng nóng. Mỗi năm có thể trồng tới 4 lứa dưa, tăng 2 lứa so với trồng truyền thống”, bà Quách Thị Thêu, mẹ của anh Tài chia sẻ.
Không chỉ tăng số vụ, chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên rõ rệt. Dưa chuột baby thu hoạch đồng đều, mẫu mã đẹp, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài tỉnh.
Dưa chuột baby trồng trong nhà lưới mang lại lợi nhuận trên 300 triệu đồng/năm cho gia đình anh Tài. Ảnh: Mai Đan.
Sau vài năm vận hành ổn định, mô hình đã chứng minh hiệu quả bằng những con số cụ thể. Trung bình mỗi năm, gia đình anh Tài thu hoạch và cung cấp ra thị trường trên 40 tấn dưa thương phẩm chất lượng cao. Dù diện tích không lớn, nhưng nhờ quay vòng được nhiều vụ và kiểm soát tốt chi phí, mô hình mang lại nguồn thu trên 300 triệu đồng/năm, cao gấp nhiều lần so với phương thức canh tác truyền thống trước đây.
Với người nông dân, đó không chỉ là con số về thu nhập, mà còn là sự thay đổi về tư duy: làm nông nghiệp cũng cần tính toán, đầu tư bài bản và gắn với khoa học kỹ thuật.
Không giữ riêng cho mình
Điều đáng trân trọng ở mô hình này không chỉ nằm ở hiệu quả kinh tế, mà còn ở cách gia đình anh Tài lựa chọn lan tỏa kinh nghiệm. Bà Thêu là người trực tiếp gắn bó với khu nhà lưới từ những ngày đầu. Bà nhớ rất rõ những vụ dưa trồng theo cách cũ, khi công sức bỏ ra nhiều nhưng thu nhập chẳng đáng là bao.
“Ngày xưa trồng dưa theo kiểu truyền thống, làm quanh năm mà chẳng dư dả gì. Bây giờ có nhà lưới, có kỹ thuật, hiệu quả khác hẳn”, bà Thêu nói.
Không vì thế mà gia đình giữ riêng kinh nghiệm cho mình. Trái lại, bà Thêu và anh Tài luôn sẵn sàng đón bà con trong vùng đến tham quan, học hỏi. Từ cách dựng nhà lưới, chọn giống, xuống giống đến chăm sóc, thu hoạch, mọi khâu đều được chia sẻ cởi mở.
Theo bà, nhiều hộ nông dân ban đầu còn e dè, nhưng khi tận mắt chứng kiến hiệu quả, họ dần mạnh dạn hỏi han, trao đổi. Có người chỉ hỏi vài kinh nghiệm nhỏ, có người tìm hiểu kỹ để chuẩn bị đầu tư bài bản hơn.
Mỗi năm gia đình bà Thêu có thể trồng tới 4 lứa dưa trong nhà lưới, tăng 2 lứa so với trồng truyền thống. Ảnh: Mai Đan.
“Mình cũng từng phải học người khác mới làm được. Giờ có kinh nghiệm thì chia sẻ lại cho bà con, để ai cũng có cơ hội làm ăn tốt hơn”, bà Thêu nói thêm.
Chính sự sẻ chia ấy đã giúp tri thức lan tỏa một cách tự nhiên, không áp đặt, không lý thuyết, mà bằng những minh chứng cụ thể ngay trên đồng ruộng.
Nhìn từ góc độ rộng hơn, bà Mai Thị Thanh Hòa - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ Nông nghiệp Phong Châu (xã Đông Tiên Hưng) cho rằng, mô hình trồng dưa chuột baby của gia đình anh Tài là một ví dụ điển hình cho cách tri thức cộng đồng được hình thành và lan tỏa.
“HTX xác định rõ, muốn bà con thay đổi tư duy thì phải cho họ thấy mô hình cụ thể, hiệu quả rõ ràng. Những mô hình như thế này chính là ‘lớp học thực tế’ sinh động nhất”, bà Hòa chia sẻ.
Tuyên truyền để thu hẹp “khoảng trống thông tin”
Theo nữ Giám đốc HTX, bên cạnh việc hỗ trợ dịch vụ sản xuất, HTX đặc biệt chú trọng tập huấn, tuyên truyền thông tin cho xã viên. Các buổi tập huấn không chỉ diễn ra trong hội trường, mà còn được tổ chức ngay tại ruộng, tại nhà lưới, nơi bà con có thể tận mắt quan sát và trực tiếp trao đổi.
Bà Hòa cho rằng một trong những vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp hiện nay là sự thiếu hụt thông tin. Không phải hộ nào cũng có điều kiện tiếp cận mạng xã hội hay các kênh thông tin hiện đại, vì vậy HTX phải lựa chọn cách truyền đạt phù hợp.
Theo bà Mai Thị Thanh Hòa - Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp Phong Châu, mô hình trồng dưa chuột baby của gia đình anh Tài là một ví dụ điển hình cho cách tri thức cộng đồng được hình thành và lan tỏa. Ảnh: Mai Đan.
“Chúng tôi cố gắng đưa thông tin đến tận xã viên, bằng nhiều hình thức khác nhau: tổ chức tập huấn ngay tại đồng ruộng, cho bà con tham quan trực tiếp các mô hình hiệu quả như nhà lưới, lồng ghép tuyên truyền trong các buổi sinh hoạt xã viên, đồng thời hướng dẫn cụ thể theo từng vụ sản xuất, từng loại cây trồng. Khi bà con hiểu rõ kỹ thuật, thị trường và cách làm, họ sẽ chủ động hơn rất nhiều trong sản xuất”, bà Hòa nói.
Nhìn lại, khu nhà lưới hơn 2.000m² của gia đình anh Phạm Văn Tài không chỉ là một mô hình sản xuất hiệu quả, mà còn là nơi tri thức được “gieo mầm”. Những con số về sản lượng, thu nhập là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả kinh tế, nhưng điều quan trọng hơn là tinh thần sẵn sàng chia sẻ, cùng nhau học hỏi.

































