Một vùng đất gian khó
Cao Sơn (Phú Thọ) từ lâu vốn được biết đến là một xã nghèo, địa hình phức tạp, sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Người dân gắn bó với nương rẫy, chủ yếu trồng ngô, lúa, chăn nuôi gà, lợn bản địa. Nhưng cái nghèo dường như đeo bám mãi, được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa. Dịch bệnh trên vật nuôi, thời tiết thất thường càng khiến cuộc sống bấp bênh.

Nuôi dê sinh sản giúp đồng bào vùng cao phát triển sinh kế, tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo bền vững. Ảnh: Trung Dũng.
Có những gia đình quanh năm chỉ biết đến củ sắn, bắp ngô làm thức ăn chính. Thanh niên trai tráng nhiều người bỏ quê đi làm thuê, để lại sau lưng những mái nhà thưa vắng. Trong ký ức của nhiều người dân, “Cao Sơn nghèo lắm, làm quần quật quanh năm cũng chẳng đủ ăn”.
Nhưng những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Nhà nước thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, một cánh cửa mới đã mở ra. Cao Sơn bắt đầu phát huy lợi thế địa phương, định hướng lại sản xuất theo hướng bền vững.
Lợi thế tự nhiên được đánh thức, người dân “đổi đời”
Địa hình đồi núi xen kẽ, đất đai màu mỡ, nguồn phụ phẩm nông nghiệp dồi dào, tất cả là nền tảng để Cao Sơn chọn hướng đi mới. Chính quyền xã định hướng bà con phát triển cây trồng, vật nuôi bản địa thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên, ít rủi ro và mang lại giá trị lâu dài.

Người dân tận dụng lá cây, rau rừng làm nguồn thức ăn tự nhiên cho đàn dê, phát triển mạnh khỏe. Ảnh: Trung Dũng.
Trong trồng trọt, những cánh rừng bương mốc, tre bát độ, keo, quế… đã phủ xanh sườn núi. Các loại cây này không chỉ cho gỗ, măng, mà còn giữ đất, chống xói mòn, hạn chế sạt lở. Trong chăn nuôi, mô hình phát triển đàn dê, bò, gà theo hướng an toàn sinh học được khuyến khích. Người dân tận dụng lá rừng, thân chuối, lá xoan, cỏ dại làm thức ăn cho gia súc, giảm chi phí và hạn chế chất thải.
Ông Nguyễn Hồng Tuấn, Phó Chủ tịch UBND xã Cao Sơn, chia sẻ: “Nhờ nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia, xã đã triển khai nhiều mô hình, trong đó nuôi dê sinh sản ở các xóm Ênh, Chầm, Cao Sơn cũ là một điểm nhấn. Cùng với đó là mô hình chăn nuôi bò lai Sind, trồng bương mốc lấy măng. Đa số các mô hình đều phát huy hiệu quả, góp phần ổn định sinh kế cho bà con”.
Nếu như trước đây, nhắc đến dê, người dân Cao Sơn chỉ xem như một con vật quen thuộc trên rừng, thì nay nó đã trở thành “cần câu cơm” giúp thoát nghèo.
Anh Sa Văn Sinh, thôn Sơn Phú, là một trong những hộ điển hình. Cuối tháng 11/2024, gia đình anh được hỗ trợ 2 con dê giống. Chỉ sau gần một năm, đàn dê đã nhân lên, có thêm 2 con non và chuẩn bị sinh sản lứa tiếp theo.
“Chăn nuôi dê phù hợp lắm, thức ăn có sẵn, ít dịch bệnh, lại dễ chăm sóc. Ai trong gia đình cũng có thể đi lấy thức ăn cho dê. Tôi xác định đây là hướng đi lâu dài nên đang tính mở thêm chuồng trại”, anh Sinh chia sẻ với ánh mắt sáng lên niềm hy vọng.
Không chỉ làm giàu cho gia đình, anh Sinh còn là tổ trưởng nhóm nuôi dê của xóm, nơi 27 hộ cùng tham gia. Anh trở thành chỗ dựa tin cậy của bà con nhờ sự tận tâm, trách nhiệm, thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, động viên nhau vượt khó.
Niềm tin lan tỏa trong cộng đồng
Sự đổi thay không chỉ nằm ở những đàn dê lớn nhanh mỗi ngày, mà còn hiện hữu trong nụ cười, ánh mắt người dân. Bà Hà Thị Khánh – Trưởng thôn Sơn Phú nhớ lại: “Ngày trước, bà con sống dựa vào vài sào nương, cuộc sống chông chênh. Giờ có đàn dê, nhiều hộ nghèo đã có thêm nguồn thu, đời sống khá hơn. Điều quan trọng là bà con có niềm tin để tiếp tục vươn lên”.
Theo bà Khánh, vì nguồn lực hỗ trợ còn hạn chế, nên chính quyền luôn ưu tiên cho những hộ khó khăn nhất trước. Cách làm này vừa công bằng, vừa tạo động lực để bà con nỗ lực vươn lên, thay đổi tư duy “trông chờ, ỷ lại”.

Nuôi dê bằng lá cây, rau rừng là giải pháp tiết kiệm, thân thiện môi trường cho bà con vùng cao. Ảnh: Trung Dũng.
Cao Sơn hôm nay không chỉ thoát nghèo nhờ những con dê, những cánh rừng bương, quế, keo. Quan trọng hơn, người dân đã có sự thay đổi trong nhận thức: Từ chỗ làm nông nghiệp manh mún, nay họ biết làm ăn bài bản, biết tính toán sinh kế dài hạn.
Từ con dê, người dân học cách đoàn kết, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong khó khăn. Nhóm nuôi dê ở thôn Sơn Phú không chỉ là nơi trao đổi kỹ thuật, mà còn trở thành nơi gắn kết cộng đồng, hun đúc tinh thần “cùng nhau thoát nghèo”.
Không dừng lại ở việc thoát nghèo, Cao Sơn còn hướng đến một nền kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Phân dê được dùng cho trồng trọt, rừng tre, quế giúp giữ đất, hạn chế thiên tai. Đó là cách làm vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Thực tiễn ở Cao Sơn cho thấy, khi Nhà nước đồng hành, chính quyền quyết tâm, người dân đồng lòng thì hiệu quả giảm nghèo sẽ nhân lên gấp bội. Từ những đàn dê nhỏ hôm nay, một tương lai bền vững đang mở ra.
Từ đàn dê nhỏ, hy vọng lớn đang được gieo trồng nơi vùng cao, để ngày mai, Cao Sơn không chỉ thoát nghèo mà còn trở thành biểu tượng của sức sống, của sự đổi thay trên những triền núi xanh thẳm.