Những bài đăng báo cuối cùng của cụ Lương Văn Can: [Kỳ 2] Quan tham bởi đâu?

N.C (Lương Ngọc Can) - Thứ Tư, 04/10/2023 , 08:21 (GMT+7)

Quan thanh liêm thì pháp luật mới công bằng, quan tham thì pháp luật không khỏi thiên lệch, pháp luật công bằng thì nước thịnh yên, pháp luật thiên lệch thì nước suy dân hại...

Từ nước quân chủ, nước dân chủ cho chí nước lập hiến, không một nước nào không công nhận quan trường là những người đứng lên giữ pháp luật.

Quan thanh liêm thì pháp luật mới có công bằng, quan tham nhũng thì pháp luật không khỏi thiên lệch, pháp luật công bằng thì nước thịnh yên, pháp luật thiên lệch thì nước suy dân hại; cho nên dù phong tục thay đổi đến nhường nào, đời chuộng quyền thuật là bao nhiêu, cũng phải lấy tiếng thanh liêm làm tiếng đáng yêu, đáng quý, đáng tôn đáng chuộng, mà lấy tiếng tham nhũng làm tiếng đáng chê, đáng cười, đáng trách, đáng giận vậy.

Cảnh một phiên tòa xét xử ở Vĩnh Long năm 1885. 

Nước ta xưa lương bổng quan rất bạc, cây lương chỉ có bao nhiêu phương thóc, nguyệt bổng chỉ có mấy chục quan tiền ví với lương các quan bây giờ mười phần chưa được một.

Lương đã ít như thế, mà phần nhiều ngài vẫn giữ được tiếng thanh liêm như ngọc lành không hề có vết, gương trong chẳng chút bụi trần, xem trong lịch sử ta chép lắm ông làm đến cực phẩm {phẩm hàm cao nhất trong triều} cũng vẫn thường túng bấn, là vì phong hóa bấy giờ còn quý thanh bạch, trọng tiết kiệm, chuộng liêm sỉ mà kiêng sợ cái tiếng tham ô như cái vết nhọ, cho nên càng làm quan to, càng nghèo càng lấy làm cao thượng, thủy chung chỉ lo không giữ được tiếng Liêm thôi.

Nay lương bổng các quan ta nhiều gấp bội phần lương bổng các quan khi trước, tưởng bất tất thu thái không ngại cứ lương mà tiêu cũng đã đủ phú túc, thừa phong lưu, các quan ngày nay giữ cái tiếng thanh liêm lại dễ hơn, các quan khi trước mới phải sao mà bây giờ trong quan trường ta giữ tiếng thanh bạch thì rất ít, mà chỉ đua nhau thi cái thủ đoạn nạo khoét thì rất nhiều, chỉ cốt làm thế nào cho đầy túi tham mà cái tiếng thanh liêm với tiếng tham thì gác ngoài tai không lấy làm giới ý.

Kìa ta thử xem như những ông làm quan chưa được bao lâu đã thấy tậu nhà cho thuê hàng đấy, tậu ruộng mở liềm từng khu, ăn tiêu may mặc tha hồ cực xỉ cùng xa, tiền của đào đâu ra nhiều như thế, bất tất phải nói ai cũng đã rõ.

Lương bổng đã rất hậu mà cái thói tham ô vẫn không hết, là bởi cớ gì? Tại không có pháp luật trừng trị việc tham tang hối lộ chăng? Hay tại thông lệ bây giờ dân gian tất phải mang lễ vào quan công việc mới xong chăng? Không phải thế, luật “tham tang” {ăn của hối lộ, đút lót} không đâu không thi hành, không nha môn nào không có, mà tờ chỉ dụ năm trước “cấm dân không được mang lễ vào quan, cấm quan không được thu lễ của dân” hãy còn rành rành ra đó, những người năng đến cửa quan tưởng cũng đã in sâu vào tâm não. Vậy thì pháp luật trừng trị việc tham tang cũng đã rành rọt, dân gian có lệ luật nào phải mang lễ vào quan.

Thế thì quan tham bởi đâu? Sự đó có nhiều nguyên nhân, nhưng cái nguyên nhân gần nhất là tại dân ta phần nhiều hãy còn ngu dại, không hiểu pháp luật vậy.

Cứ phép công mà bằng ra thì không khi nào dân phải mang lễ vào quan, mà cũng không được mang lễ vào quan. Sao dân ta cứ để của vào quan tựa hồ như nước chảy chỗ trũng, như than bỏ vào lò. Quan ăn lương tức là thuế của dân đóng, thì phải làm việc hết bổn phận đối với dân, khi dân có việc gì cần phải đến công môn, cứ việc mà vào, xong việc thì ra việc gì cứ phải vào quan tất phải có chè, lá đơn kèm theo đồng bạc.

Tòa Hội đồng làng Bộ La, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, khoảng 1920-1939.

Nói như việc bầu cử thì bên nào đúng lệ thì được, hơn phiếu thì được, có lẽ nào làm chánh phó tổng phải lễ quan mất một vài nghìn, bảy tám trăm làm chánh phó lí phải lễ quan mất năm ba trăm, sáu bảy chục, cùng là các việc khác như chánh phó hương hội, tuần tổng, xã đoàn, có lẽ nào tất phải đem tiền lễ quan mới làm xong thì bên nào phải thì được, trái thì thua, quan phải lấy luật công bằng mà xử, việc gì ta phải ra sớm vào tối, khấn trước một đôi trăm, luồn trước vào sau, đút lót năm chục, bảy chục.

Lại như từ khi thi hành luật mới, chỉ có chuyện phiếm tòa án là bắt được dân, quan không có phép bắt bằng trát, thế mà nhiều nơi vẫn bắt bằng trát, vẫn thấy linh về sai, sao dân cũng chịu, người đi là có tiền theo đi. Bởi cái dại của ngu dân đem tiền đến công môn như thế, thành ra nuôi cái ác cho người giữ pháp luật ở chốn công thự, thấy của thèm tối mắt, hám lợi mất lương tâm, mà văn ngay ra cong, xoay phải ra trái, cái thói hối lộ đã thành nếp, không có không yêu, cái quyền uy tác phúc mới lạm dụng vậy.

Đương cái thời đại kim tiền này biết bao kẻ vì đồng tiền mà phá hoại cả danh dự, vì đồng tiền làm trái cả kỉ cương, thế mà ta cứ đệ tiền mãi vào quyền môn {cửa quyền} để cầu thân, thì có khác gì đem thịt vất cho hổ đói. Tả thử nghĩ người thục nữ trinh tiết thì không bao giờ kẻ cường bạo làm ô nhục được danh, người giao thiệp khôn ngoan thì không bao giờ kẻ gian quyệt dám lừa lấy lợi.

Suy thế biết nếu dân ta sành sỏi thì quan không có đường lối nào mà ăn của đút được. Chẳng qua dân ta chỉ quen cái thói “tốt lễ dễ van” mới có những hạng thỉnh thót quan mà làm cò mồi, thờ phụng quan mà làm chó săn, vạch lông tìm vết, bới bèo ra bọ, điều lành sinh điều dữ, cái sảy nảy cái ung, để xoay xỏa lũ dân hèn mà kiếm chác. Hầu riêng trong tư thất, đêm khuya dẫn bạc vào, thì sở Thanh tra cho người dò xét khôn khéo đến mức nào cũng không có chứng cớ được. Trách nào quan chả càng ngày càng giàu, dân chả càng ngày càng hại.

Nay dân ta muốn thoát khỏi cái hại ấy, không gì bằng lớn từ một tỉnh, một huyện, nhỏ đến một xã một thôn, những người có kiến thức bạo dạn khuyên bảo cho hạng ngu si hèn nhát, đem pháp luật ra mà giảng giải cùng nhau, có việc gì lâm đến việc quan không việc gì phải mất tiền khai tiền trình, tiền lễ, tiền tạ, vào thầy nha không phải mất chè lá, nhận trát bắt không phải mất tiền sai, lại cần phải bảo rõ họ biết rằng: “đem tiền vào quan là phạm tội”, một làng như thế, trăm nghìn làng như thế thì họa may mới lấp được cái suối tham trong hoạn trường vậy.

Nếu không thế thì quen mui thấy mùi, đào được đào mãi, dẫu đem hết của huyết hãn dâng vào đã chắc bụi sống tác phúc cho đâu. (còn nữa)

N.C (Lương Ngọc Can) (Thực nghiệp dân báo, 23/3/1926)
Tin khác
Ta yêu tiếng nước ta
Ta yêu tiếng nước ta

Tiếng Việt - tiếng nước ta - trước hết, đó là tiếng nói Việt (âm Nôm), mà người nước ngoài mô tả là 'líu lo như tiếng chim'.

Về việc chọn sách giáo khoa ở Hoa Kỳ cho học sinh
Về việc chọn sách giáo khoa ở Hoa Kỳ cho học sinh

Bài viết này cung cấp vài nét chính về quy trình chọn lựa sách giáo khoa cho các lớp từ Mẫu giáo đến lớp 12 của hệ thống trường công lập ở Bắc Mỹ.

Nhớ Dương Tường
Nhớ Dương Tường

Gần đây, nhân một người trẻ rời cõi tạm được cộng đồng mạng nhắc đến rất nhiều với những lời tưởng thưởng về tài năng của anh, tôi lại nhớ đến DƯƠNG TƯỜNG.

'Tống biệt hành' - ai người Thâm Tâm tống biệt?
'Tống biệt hành' - ai người Thâm Tâm tống biệt?

'Tống biệt hành' có thể xem là một bài thơ dự báo định mệnh. Đó là một bài thơ rất lạ, đến nay vẫn còn rất lạ, khiến người đời sauphảirơinướcmắt,nghĩngợimãichưathôi!...

Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ
Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ

Dáng đứng Việt Nam được bồi đắp từ sự hy sinh của những thương binh liệt sĩ, còn mãi vang vọng trong những áng thơ kiêu hãnh và tự hào.

Quả sấu tròn
Quả sấu tròn

Quả sấu tròn đã lăn từ lịch sử và rừng già đến mọc giữa phố xá, tặng con người một bát canh chua như lời nhắc nhở đừng quá rời xa cội nguồn.

Hào khí Việt lấp lánh trong 'Ba người vượt ngục Guyane'
Hào khí Việt lấp lánh trong 'Ba người vượt ngục Guyane'

Hào khí Việt những năm đầu thế kỷ 20 được tái hiện rất rõ nét qua cuốn sách tư liệu công phu 'Ba người vượt ngục Guyena' của tác giả Đỗ Thái Bình.

Lạc vào cuộc ‘đua thuyền’ truyền hình Quảng Bình
Lạc vào cuộc ‘đua thuyền’ truyền hình Quảng Bình

Không có hàng ngàn cổ động viên reo hò, nhưng tôi đã tưởng tượng là ê kíp truyền hình trực tiếp đang chèo một con thuyền chở văn hóa Quảng Bình đi khắp muôn nơi...

Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp
Nông nghiệp và Môi trường với Nguyễn Huy Thiệp

Dù khiêm tốn đến mấy, hẳn ông Lê Nam Sơn, ông Trịnh Bá Ninh và các biên tập viên kỳ cựu của báo đều không thấy chướng khi nói rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần làm nên, làm vững chắc thêm hiện tượng Báo Nông nghiệp Việt Nam số Tết trong làng báo nước nhà.

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Xuất xứ cuốn truyện 'Mồ cô Phượng'
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Xuất xứ cuốn truyện 'Mồ cô Phượng'

Ông bạn già kính mến của tôi thầm lặng viết 'Mồ cô Phượng', ở trong các tiệm ăn, ngoài đường, quán chợ, bến tàu. Vậy mà tuyệt nhiên không nói với tôi một lời.

Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Hoàng Tích Chu - Khí phách một nhà báo
Hồi ký Phùng Bảo Thạch: Hoàng Tích Chu - Khí phách một nhà báo

Tôi say sưa đọc đi đọc lại bài báo của Hoàng Tích Chu. Với bài báo này, anh đã để lại trong tôi cái ấn tượng tốt đẹp của khí phách một người làm báo.

Cây liễu trước gió thôn tôi
Cây liễu trước gió thôn tôi

Tổng kết UBMTTQ huyện Quỳnh Lưu, tôi ngỡ ngàng khi thấy Bí thư Chi bộ thôn tôi Cù Thị Nhàn trong bộ áo dài vàng thướt tha lên sân khấu nhận bằng khen.