Luật sư Nguyễn Mạnh Tường - Những bút ký đặc sắc

Nguyễn Mạnh Tường - Thứ Sáu, 09/02/2024 , 08:25 (GMT+7)

Lập luận và tri thức uyên thâm của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt Nam kháng chiến, kiên cường và trí tuệ...

GS.TS. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997).

Là một trong những người trí thức Việt Nam thông minh siêu việt gắn với nhiều huyền thoại, sau cách mạng tháng Tám 1945, Giáo sư - Tiến sĩ - Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997) với tầm kiến thức rộng lớn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt (1946). Những năm sau, ông còn tham gia vào đoàn Đại biểu của Chính phủ kháng chiến Việt Nam dự Hội nghị Bảo vệ Hoà bình ở Bắc Kinh (Trung Quốc - 1952), Đại hội Hoà bình Thế giới ở Vienna (Áo - 1953), rồi làm trưởng đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Luật gia Dân chủ Thế giới ở Bruxelles (Bỉ - 1956). Lập luận và tri thức uyên thâm của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt Nam kháng chiến, kiên cường và trí tuệ...

Báo NNVN giới thiệu đến bạn đọc những bài bút ký đặc sắc của ông qua sự tuyển chọn của nhà báo Kiều Mai Sơn.

I. Thư của giáo sư đại học Việt Nam gửi hội nghị Hòa bình châu Á

Bài liên quan

Giữa một dân tộc đang hy sinh và chiến đấu để tự giải phóng và góp xương máu vào công cuộc bảo vệ hoà bình thế giới, chúng tôi đang xây dựng nền Đại học Việt Nam, gửi lời chào mừng Hội nghị các chiến sĩ hoà bình. Chúng tôi được sung sướng đặt hết hy vọng và tin tưởng của toàn thể nhân loại, vào sự cố gắng và tận tuỵ của các vị. Tiếng nói của chúng tôi  chưa được hùng hồn nhưng chúng tôi ước mong sẽ có hiệu quả vừa để tán dương tinh thần hăng hái của các vị, vừa để mở cho chúng tôi một con đường đi, trên đó chúng tôi được gập và sát vai với các người thiết tha đến danh dự con người, hạnh phúc nhân loại và chiến đấu cho cái mà Giáo sư Jôliô-Curi gọi là bảo vật quý giá nhất của nhân loại các nước: Hoà bình.

Chúng tôi đang từ một thung lũng tối đen cố leo lên các đỉnh núi giàn giụa ánh sáng. Trưởng thành dưới chế độ thực dân, chúng tôi đã đo lường cái sâu độc của một chính sách chỉ có mục đích đào tạo một số ít ỏi thượng lưu trí thức tách khỏi khối vĩ đại của dân tộc và hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, phụng sự quyền lợi của đế quốc thống trị. Một nền giáo dục cắt đứt cội rễ của con người với các truyền thống tốt đẹp của quốc sử, của đồng bào, một chương trình kiến trúc dựng vài lâu đài “nguy nga” nhưng trơ trọi giữa hàng triệu túp lều tranh xiêu vẹo, chỉ có thể lừa bịp được một số ít lữ khách ngoại kiều, mà các hình ảnh nông cạn, các hư danh, các khái niệm siêu hình, đủ làm say mê rồi.

Chính các cá nhân được chế độ ấy trọng đãi, cũng cảm thấy chung quanh tháp ngà của họ, một nỗi hiu quạnh vô bờ bến. Vài vị kỹ sư, bác sĩ, giáo sư “tượng trưng”, được mang đi phô trương đây đó để chứng minh ý chí khai hoá của đế quốc, không phải là một bình phong che lấp đủ hang triệu người mù chữ trong nhân dân,cũng như đèn điện chiếu sáng các đô thị không thể xoá mờ được quang cảnh tàn khốc, điêu khổ trong hương thôn. Lìa đầu óc với chân tay, nuôi cái đầu với các hư tưởng trong khi thân thể suy nhược vì ốm đói, dung bả vinh hoa để mê muội sĩ phu, ngăn cản họ khỏi nghe tiếng ta than, rên rỉ của quần chúng, đem mồi truỵ lạc để dụ dỗ thanh niên, khủng bố dã man người yêu nước để dập tắt hào hứng và lửa thiêng của căm hờn dân tộc, đục rũa các tâm hồn lành mạnh, áp bức các ý chí cao thượng, ai hơn chúng tôi, đã từng nếm mùi vị cay đắng của món quà văn hoá giáo dục mà thực dân ban biếu để kìm hãm dân chúng trong vòng nô lệ?

Ngay hiện thời, trên các mẩu đất mà chúng còn dẫm chân lên, chúng vẫn giữ thủ đoạn cũ. Với sự đồng tình của một nguỵ quyền mà chúng cho phép vẫy vùng trên núi vàng kiến lập với mồ hôi, nước mắt, xương máu của đồng bào, chúng theo đuổi và phát triển cực độ chương trình hủ hoá dân chúng. Hàng đại đoàn hồng lâu, hang sư đoàn gái điếm trình bầy các hình thái quái gở của một văn minh đồi bại và đặt cơ sở cho một nền văn nghệ khiêu dâm. Trong khi thân thể đắm đuối trong các khoái lạc nhục dục, tinh thần nhu nhược hấp thụ dễ dàng các lý tưởng lạc hậu. Chủ nghĩa nào tiến bộ thì bị bưng bít hay xuyên tạc. Các ngực thở khó, các tâm thần hoảng hốt rung sợ trước các hình ảnh bi đát của một cuộc chiến tranh mà nhà đương cục cho là không thể tránh được. Để chuẩn bị một tương lai nặng nề thất vọng, các nhà cầm quyền thủ tiêu các tự do cuối cùng và dành phận to nhất của ngân sách cho quỹ binh phí.

Nhưng may mắn, thanh niên bất khuất vẫn cảnh giác. Để đánh thức đồng bào, để giải thoát dân chúng khỏi cơn ác mộng, máu học sinh sẵn sang chẩy, hoặc ở Sài Gòn để phản đối bù nhìn bán nước, hoặc ở Bắc Bộ để chế nhiễu nguỵ quyền và suy tôn Hồ Chủ tịch. Từ đống bùn hôi hám, luồng gió thanh tươi thổi về chiến khu, tin tưởng và hy vọng của quần chúng đau khổ.

Trong lúc ấy, người kháng chiến xây dựng một tương lai cho dân tộc.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cùng các thành viên đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa bình (1952).

Cuộc cách mạng đã giải phóng toàn dân. Nhưng cuộc giải phóng chỉ có thể hoàn thành được khi nào mọi người được giải phóng về tinh thần cũng như vật chất. Cuộc tranh đấu tư tưởng kịch liệt như cuộc chiến đấu quân sự. Muốn thu được thắng lợi trên mặt trận nọ cũng như ở mặt trận kia, chiến lược độc nhất vẫn là áp dụng tinh thần dân chủ để phục vụ nhân dân. Một nền giáo dục và văn hoá chủ trương giải phóng con người phải kiến thiết, như Lênin và Xtalin dậy, dưới một hình thể quốc gia bản chất “xã hội chủ nghĩa”. Hội nghị các ngài đã từng nghe thấy trong phiên họp ở Pa-ri năm 1949:

Ilia Êrenbua tuyên bố: “Ai yêu chuộng văn hoá thế giới cũng yêu mến đặc tính của mỗi dân tộc, một người ái quốc chân thật yêu quý nhân loại cũng như một người có tinh thần quốc tế thật thà phải tận tuỵ với dân tộc mình”.

Fa-dé-ef kêu gọi các trí thức, vô luận quốc tịch, nòi giống, chính kiến hay tôn giáo, chống lại bọn khiêu chiến và bè lũ tâng bốc chúng, thét tiếng của nhân văn chủ nghĩa mà các phần tử ưu tú nhất của mỗi dân tộc đã truyền lại.  

Quách Mạt Nhược động viên tất cả các lực lượng hoà bình trên hoàn cầu.

Chúng tôi tán thành các ý kiến ấy, chúng tôi hưởng ứng các lời kêu gọi ấy. Vì vậy, hôm nay chúng tôi trình diện trước Hội nghị một nền Đại học Việt Nam, mạnh dạn, cương quyết bước chân trên con đường mà các chiến sĩ hoà bình đã vạch mở.

Nẩy nở trong khói lửa kháng chiến, dĩ nhiên Đại học Việt Nam mang trong bản thân dấu vết của thời cục. Dưới sự khủng bố của phi cơ thực dân, trong các lều trống sơ sài, hay các đình chùa mục nát, giữa đêm tối, ngồi sát đất, chống tay lên chiếc bàn thấp bé, cạnh ngọn đèn dầu hoả mà ánh sang nhẩy múa theo nhịp của gió, mỗi thanh niên Việt Nam học hỏi lý thuyết của Mác và En-ghen, Lênin và Xtalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, khảo cứu các tác phẩm của Mít-su-rin và Lít-sen-kô, thưởng thức thơ của A-ra-gông và Êlua, mơ tưởng đến Mạc-tư-khoa và Bắc Kinh, căm thù quân đội thực dân nhưng mến chuộng nhân dân và văn hoá Pháp quốc, thông cảm với bao nhiêu triệu thanh niên dân chủ trong các tư tưởng, các hy vọng chung. Không ai có thể tưởng tượng tách được cá nhân khỏi đại chúng, dân tộc khỏi nhân loại. tư tưởng khỏi hành động, kháng chiến khỏi kiến quốc, tinh thần quốc gia khỏi tinh thần quốc tế và hoà bình khỏi dân chủ.

Ai nấy đều tin tưởng ở tương lai của dân tộc cũng như của nhân loại và chỉ mong muốn trở nên một người lao động dùng sức lực của mình để xây dựng xã hội chủ nghĩa, hoàn lại danh dự cho con người và hạnh phúc cho nhân loại.

Dân Việt hiến cho hoà bình thế giới trong non một thế kỷ đau khổ của các nhà cách mạng yêu nước, trong bẩy năm nay gian khổ của nhân dân, hy sinh của quân đội và bây giờ sự cố gắng trong việc xây dựng một Đại học, thành trì của Hoà bình. Ngoài chủ trương đoàn kết các từng [tầng] lớp nhân dân để chống ngoại xâm, ngoài sự thả tù binh khi chiến tranh vẫn diễn ác liệt giữa hai bộ đội, còn gì chứng tỏ hơn ý chí hoà bình của chính thể dân chủ nhân dân Việt Nam bằng sự mở mang cho thanh niên cái mà nhà Nho gọi là rừng văn bể học, cái mà Lênin coi là một kiêu hãnh to tát của nhân loại.

Vì vậy, Ban giáo sư chúng tôi quyết định, lên tiếng trước Hội nghị để trình bầy công việc của chúng tôi làm và đợi chờ sự ủng hộ của các chiến sĩ Hoà bình mà chúng tôi hy vọng được đứng trong hàng ngũ. Chúng tôi tin tưởng ở các vị và sẵn sàng thi hành các quyết nghị mà các vị tuyên bố để thực hiện nguyện vọng chung của nhân dân các nước.

Tháng Chín 1952

Nguyễn Mạnh Tường chấp bút
Tin khác
Nguyễn Huy Thiệp nhiều năm suy ngẫm về công nghệ văn chương
Nguyễn Huy Thiệp nhiều năm suy ngẫm về công nghệ văn chương

Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là cây bút truyện ngắn xuất sắc, mà ông còn dành nhiều tâm tư trong các tiểu luận về vai trò nhà văn và công nghệ văn chương.

Nguyễn Huy Thiệp giữa chất liệu gốm và chất liệu văn
Nguyễn Huy Thiệp giữa chất liệu gốm và chất liệu văn

Nguyễn Huy Thiệp vẽ gốm và những tác phẩm gốm lấy cảm hứng từ tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, được hội ngộ tại triển lãm ‘Gốm Thiệp’ ở Hà Nội.

Trịnh Công Sơn khát khao để lúa reo mừng tựa vẫy tay
Trịnh Công Sơn khát khao để lúa reo mừng tựa vẫy tay

Trịnh Công Sơn trong chiến tranh và trong hòa bình, đều ngợi ca sức sống bất tận của làng quê Việt Nam, mà thời gian càng lùi xa càng thấy đáng trân trọng.

Một địa danh gần gũi và thân thương ở miền Đông Nam Bộ
Một địa danh gần gũi và thân thương ở miền Đông Nam Bộ

Một địa danh gắn bó với tuổi thơ và gia đình, dẫu đổi thay ra sao, vẫn luôn có ý nghĩa sâu sắc trong hành trình buồn vui của mỗi con người.

Bên trong Thái y viện triều Nguyễn
Bên trong Thái y viện triều Nguyễn

Những ai từng học nghề thuốc và hành nghề thầy lang giỏi, bất kể nguồn gốc xã hội đều có thể sát hạch vào Thái y viện. Cứ 2 năm triều Nguyễn lại định kỳ kiểm tra chất lượng và năng lực của các y quan.

Nhà thơ Lê Giang ở tuổi 95 tâm sự bạc đầu nhớ má
Nhà thơ Lê Giang ở tuổi 95 tâm sự bạc đầu nhớ má

Nhà thơ Lê Giang ở tuổi 95 ra mắt cuốn sách mới có tên gọi 'Bạc đầu nhớ má' ghi lại kỷ niệm về những vùng đất đi qua, những con người tương phùng.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lắng nghe tiếng gọi chân trời
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lắng nghe tiếng gọi chân trời

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư vừa ra mắt cuốn sách ‘Tiếng gọi chân trời’ viết về những cuộc đi về nhân gian, qua góc nhìn đa cảm của một phụ nữ.

Phi công Hồ Duy Hùng trong miền hồi ức ‘gãy cánh điệp viên’
Phi công Hồ Duy Hùng trong miền hồi ức ‘gãy cánh điệp viên’

Phi công Hồ Duy Hùng từng gây chấn động dư luận quốc tế với vụ cướp trực thăng của Không quân Việt Nam Cộng hòa, vừa xuất bản tự truyện ‘Gãy cánh điệp viên’.

Trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra mô hình giáo dục siêu việt?
Trí tuệ nhân tạo sẽ mở ra mô hình giáo dục siêu việt?

Trí tuệ nhân tạo đang làm cả thế giới phải tư duy lại tương lai, và không phải ngẫu nhiên khi có người đã hình dung mô hình trường lớp với những giáo sư robot.

Biểu tượng thờ cúng của người Việt qua góc nhìn học giả Pháp
Biểu tượng thờ cúng của người Việt qua góc nhìn học giả Pháp

Biểu tượng thờ cúng của người Việt rất đa dạng và ẩn chứa nhiều ý nghĩa tâm linh, được học giả Pháp Gustave Dumoutier biên soạn thành cuốn sách công phu.

Thành hoàng Đông La qua diễn ca bái tụng của hậu sinh
Thành hoàng Đông La qua diễn ca bái tụng của hậu sinh

Thành hoàng làng Đông La ở Thanh Miện, Hải Dương trở thành biểu tượng văn hóa và lịch sử trong diễn ca ‘Ngọc phả thành hoàng’ của nhà thơ Nguyễn Ngọc Thu.

Lê Ký Thương khép lại cuộc đời tài hoa
Lê Ký Thương khép lại cuộc đời tài hoa

Lê Ký Thương, họa sĩ kiêm thi sĩ nổi tiếng, sau một thời gian đau ốm đã trút hơi thở cuối cùng lúc 9h50’ ngày 14/2 tại TP.HCM, hưởng thọ 80 tuổi.