LTS: Trong ký ức dân tộc, có một loài cây mảnh mai nhưng bền bỉ, giản dị nhưng kiêu hãnh, lặng lẽ mà gắn bó máu thịt: Cây tre. Từ thuở làng quê còn vẹn nguyên bóng dáng cổng tre, từ những ngày kháng chiến gian lao đến hôm nay, khi đất nước đã bước vào quỹ đạo hiện đại hóa, tre vẫn hiện diện như một phần hồn cốt Việt Nam.
Tre không chỉ là chất liệu của đời sống mà còn là biểu tượng của văn hóa. Qua bao biến thiên, tre nhắc nhở chúng ta về sức mạnh cộng đồng, về sự mềm dẻo trong ứng xử, về khát vọng vươn lên. Thế kỷ XXI nhiều thử thách: đô thị hóa, biến đổi khí hậu, hội nhập toàn cầu, nhưng, chính trong bối cảnh ấy, tre càng khẳng định sức sống trường tồn.
Ở một đất nước khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai thường trực, người Việt từ ngàn đời đã học cách tồn tại cùng bão tố, mưa lũ. Trong hành trình sống ấy, có những người bạn đồng hành âm thầm mà một khi ứng vào hoàn cảnh thực tế, ta mới thấu tỏ giá trị. Tre chính là một trong những người bạn như vậy. Không chỉ là bóng mát hiền lành bên ngõ nhỏ, tre còn là lá chắn, là mái che, là các vật dụng trong đời sống, là chiếc bè cứu hộ, là niềm tin để con người nương tựa mỗi khi bão gió, cuồng phong.

Dưới bóng tre làng. Ảnh: Tráng Đoàn.
Gió thổi thì tre nghiêng, gió quật thì tre rạp, nhưng hiếm khi tre gãy. Đó là một sự thích ứng tự nhiên, cũng là một triết lý sống: cái mềm dẻo, linh hoạt là cái có thể tồn tại bền bỉ trước khắc nghiệt.
Trong ký ức của nhiều thế hệ, hình ảnh lũy tre làng luôn gắn liền với sự bình yên. Nói đến làng quê Việt Nam, không thể không nhắc đến lũy tre làng. Lũy tre có tự bao giờ không ai nhớ, chỉ biết mỗi con người sinh ra lớn lên đã thấy hình ảnh lũy tre. Lũy tre án ngữ ven sông, bên đường cái, bãi đất trống, đầu làng. Thân gầy mà gan góc, rễ đan vào nhau, ăn vào đất, kết thành một mạng lưới bền bỉ như mạch máu quê hương. Nơi nào có tre là nơi ấy có bóng mát. Nơi nào có tre là nơi đó đất ít sạt, bờ ít lở. Khi bão giông gió nổi, tre dựng thành bức tường xanh ngăn gió, giữ bình yên cho mỗi ngôi nhà. Tre không chỉ là cây, tre là “người lính già” canh xóm nhỏ. Những khi nước sông dâng, nghe tiếng nước táp bờ ì oạp, biết là từng búi rễ đang chống chọi với sức nước để giữ đất, những đêm bão về, nghe tiếng tre vặn mình, biết bức tường thành xanh đang dang tay che chắn gió cho xóm làng.
Cũng trong những ngày mưa gió ấy, ngôi nhà tranh tre mộc mạc là nơi che trú, là giấc mơ an lành của bao người nông dân Việt. Tre đứng thẳng làm cột, nằm ngang làm kèo, chẻ nhỏ làm nan, vót mảnh làm đòn tay. Mái rạ lợp trên rui mè tre, phên tre nứa, vách cũng là khung tre được đan thành tấm với những ô vuông hoặc chữ nhật để đắp nguyên liệu bùn và rơm vào, tạo nên không gian ấm cúng. Trong nắng lửa mưa giông, ngôi nhà tre vẫn vững vàng. Giữa bao biến động, ngôi nhà tre là nơi trú ẩn của bình yên, của khói bếp, của tiếng trẻ thơ, của tiếng ru tựa gió đồng. Tre không chỉ dựng nên mái nhà mà còn dựng nên mái ấm quê hương - nơi con người trở về, tìm lại chỗ dựa tinh thần sau những chênh chao đời sống.

Một góc trong ngôi nhà tre trăm tuổi ở Quảng Nam. Ảnh: Trương Điện Thắng.
Người bạn tri kỷ mang cái tên giản dị - Tre cũng là một "chiến binh" quả cảm trên mặt trận hộ đê chống lũ. Từ xa xưa, người Việt đã biết dựa vào tre để giữ đê, giữ đất. Trước sức nước ngông cuồng đe dọa sự an toàn của con đê, người dân quê đã biết dùng những cọc tre đóng sâu xuống chân đê làm trụ làm khung để neo lớp bạt, lớp lưới định vị cho các bao cát, các tải đá hộc tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau tạo thành sức mạnh liền liền chắn sóng. Những con đê sinh ra từ bàn tay đào đất nện, đắp thành đắp lũy, dẫu ngày nay, một số chân móng đê có thể được gia cố bằng các vật liệu cứng hơn như bê tông hoặc bê tông nhựa để tăng độ bền và mở rộng chức năng, nhưng đất nện vẫn là nguyên vật liệu chính không thể thay thế. Đất ấy, không thể khác, chỉ có thể là cọc gỗ cọc tre đóng xuống, đá hộc bao cát chèn vào, bám chặt vào nhau, kết chặt vào nhau qua cơn sóng dữ. Vậy đó, tự bao đời, tre đã cùng con người làm nên “văn hóa hộ đê” - một thứ tri thức dân gian bền chặt, kết tinh từ sự sáng tạo và khát vọng bình yên của người Việt.

Ngăn sạt lở đê hữu Cầu tại K36+600, thôn Lạc Trung, xã Yên Trung (Bắc Ninh) đêm 2/10/2025. Ảnh: Bá Đoàn.
Từ chiếc cọc tre hộ đê chống lũ đến chiếc bè tre vượt lũ cũng là cả một câu chuyện đồng hành giữa tre và người. Với đặc thù vị trí địa lý nhiều sông suối, trước đây, bè tre là phương tiện đi lại, phương tiện làm ăn của người dân và giới kinh doanh buôn bán. Dọc ngang những khúc sông, chiếc bè tre chở theo bao phận người, từ những mong ước mưu sinh nhỏ bé đến cả những giấc mơ đổi đời. Bè tre tưởng chỉ còn trong ký ức nhưng đâu đó ở những vùng xa xôi nghèo khó, chiếc bè tre vẫn là phương tiện qua sông của người dân. Và ngay trong những ngày mưa lũ dữ dội do hoàn lưu hai cơn bão số 10, 11 gây ra, bè tre xuất hiện ở đồng bằng như một cứu cánh. Ở nhiều vùng trũng hoặc địa bàn hẹp, khi xe cơ giới chưa thể cơ động, những chiếc bè tre đã thành phương tiện để bộ đội, công an, chính quyền địa phương, lực lượng chức năng cứu người, vận chuyển lương thực, đưa trẻ nhỏ, người già đến nơi an toàn; bè tre cũng là phương tiện để người dân chủ động vận động trong trường hợp có thể. Không thể khác, đó là chiếc phao cứu sinh bằng tre đồng hành với con người qua mưa lũ, bão giông.

Cầu tạm duy nhất bị cuốn trôi sau bão số 10, người dân thôn Hành, xã Xuân Chinh, tỉnh Thanh Hóa kéo bè mảng vượt sông Ạc: Ảnh: Hữu Đại.
Vậy đó, tre không biết nói nhưng tre hành động. Cái sẵn có (ngay tại chỗ) của tre, cái dẻo dai của tre, cái nhẹ nhàng của tre thành sự chủ động, linh hoạt giữa bão giông. Trong khốn khó, con người nghĩ ngay đến tre, tìm về tre, tìm sự cứu cánh đã hiện hữu từ ký ức. Sự chủ động, ứng biến linh hoạt của người dân sẽ khó thành nếu không có một người bạn đồng hành ngay bên cạnh, sẵn sàng mở lòng để dâng hiến bất cứ lúc nào khi con người cần. Chiếc bè tre giữa biển nước là minh chứng cho chí khí không chịu khuất phục trước thiên tai của người Việt.
Tre như tấm gương phản chiếu tính cách người Việt, càng trong gian khó càng ngời lên ý chí kiên cường, tinh thần chịu đựng, phương châm thích ứng linh hoạt, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh.
Từ ngàn xưa, người Việt đã hình thành một triết lý sống và phòng thủ rất riêng - hòa mình với tự nhiên, tận dụng những gì sẵn có quanh mình để bảo vệ cộng đồng. Lũy tre làng chính là biểu tượng của tri thức ấy: vừa là ranh giới, vừa là tường thành, vừa là chỗ nương náu. Tre không chỉ ngăn gió, giữ đất, mà còn là “vật liệu phòng thủ mềm” chống giặc, chống thiên tai, chống đói nghèo. Hàng nghìn năm trôi qua, tư duy “tự lực - tự ứng phó” ấy vẫn còn nguyên giá trị, được kế thừa trong phương châm “bốn tại chỗ” hôm nay: chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ. Giữa thời đại công nghệ, triết lý ấy vẫn nhắc ta nhớ rằng: sức mạnh của con người Việt nằm ở sự chủ động, đoàn kết và thích ứng. Và sâu xa hơn, trong bóng tre làng vẫn thấp thoáng một triết lý sinh tồn giản dị, bền vững, nhân văn, nối liền quá khứ với hiện tại của một dân tộc biết sống thuận thiên mà vẫn kiên cường trước mọi biến động.

Công an xã, quân sự xã và nhân dân bản Xốp Cốp, xã Yên Thắng (nay là xã Yên Hòa, Nghệ An) chặt tre kết bè đưa cháu bé 8 tháng tuổi vượt lũ sang sông, cấp cứu kịp thời. Ảnh: Thùy Anh.
Có thể nói, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, tre là minh chứng cho sự cộng sinh. Con người cần tre, tre gắn bó với con người, cả hai cùng nhau vượt qua những khắc nghiệt của thời gian và khí hậu. Tre như một người bạn trung thành: không rời bỏ, không phản bội, lúc bình yên thì che chở, lúc giông gió thì cứu vớt. Đó là giá trị khiến tre vượt lên khỏi giới hạn của một loài cây, trở thành biểu tượng văn hóa, trở thành niềm tin.
Trong sự phát triển hôm nay, ta nói nhiều đến công nghệ, đến giải pháp kỹ thuật. Nhưng nếu quên mất tre, ta sẽ quên mất một bài học quan trọng: có những điều giản dị, gắn bó với thiên nhiên, lại bền vững hơn bất cứ thứ gì. Tre không cần công nghệ cao, không cần máy móc phức tạp, nhưng tre đã cứu sống bao thế hệ, đã góp phần giữ đất, giữ làng, giữ cho sự sống được tiếp nối. Ở đó, ta thấy rõ triết lý sống Việt: dựa vào nhau, dựa vào thiên nhiên, mềm dẻo mà kiên cường.
Tre trong bão lũ, vì thế, không chỉ là chuyện của một loài cây. Đó là câu chuyện của cả một dân tộc, về sự gắn bó, về sức mạnh đoàn kết, về cách đi qua khó khăn để tồn tại và phát triển. Nhìn tre trong mưa bão, ta hiểu hơn vì sao từ ngàn đời, người Việt vẫn dành cho tre một vị trí quan trọng trong tâm thức. Và nhìn về tương lai, ta tin tre vẫn sẽ tiếp tục đồng hành, không chỉ như bóng mát quê hương, mà như một lá chắn bình yên, trong bão lũ cũng như trong cuộc đời.