Khoảng trống tiêu chuẩn sau khi các QCVN khảo nghiệm hết hiệu lực
Việc xây dựng hệ tiêu chuẩn thống nhất cho khảo nghiệm giống đang trở thành yêu cầu cấp bách, trong bối cảnh nhiều văn bản kỹ thuật trước đây đã hết hiệu lực, khiến các tổ chức khảo nghiệm lúng túng khi triển khai. Hệ thống quản lý giống cây trồng vì vậy thiếu nền tảng đồng bộ để đánh giá, công nhận và lưu hành giống một cách nhất quán.
Tọa đàm có sự tham gia của hàng trăm đại biểu trực tiếp và trực tuyến. Ảnh: Bảo Thắng.
Tại Tọa đàm "Thực trạng ứng dụng KHCN nghiên cứu chọn tạo, sản xuất giống rau, hoa ở Việt Nam; Tự công bố lưu hành và tiếp cận thực tiễn để xây dựng TCVN về khảo nghiệm nhóm không phải cây trồng chính" sáng 28/11, ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam, cho rằng, vướng mắc lớn nhất hiện nằm ở cơ chế công nhận và tự công bố lưu hành giống.
Luật Trồng trọt 2018 và Nghị định 94/2019/NĐ-CP quy định rõ 2 cơ chế này, nhưng triển khai trên thực tế gặp trở ngại do hệ tiêu chuẩn làm căn cứ kỹ thuật chưa đầy đủ. Các nhóm cây trồng chính vẫn phải khảo nghiệm VCU (xem giống có ngon, năng suất tốt, đủ hiệu quả để đưa vào sản xuất không), trong khi nhiều nhóm cây khác lại thuộc diện được tự công bố. Sự khác biệt về cách thức thẩm định khiến hoạt động lưu hành giống thiếu tính liên thông, gây lúng túng cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Vào năm 2022, một loạt quy chuẩn quốc gia (QCVN) về khảo nghiệm giống bị hủy, trong khi TCVN mới cho nhiều đối tượng cây trồng vẫn chưa được ban hành. Các đơn vị khảo nghiệm phải dựa trên hướng dẫn nội bộ hoặc tiêu chuẩn xây dựng tạm thời. Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng Quốc gia (gọi tắt là Trung tâm Khảo kiểm nghiệm) cho biết, hiện có nhiều bộ tiêu chuẩn được sử dụng song song giữa các đơn vị, dẫn đến kết quả khảo nghiệm thiếu tính so sánh và không tạo được nền tảng chung cho công tác hậu kiểm.
Việc thiếu tiêu chuẩn thống nhất cũng kéo theo hệ lụy về thời gian. Nhiều giống phải làm lại khảo nghiệm do tiêu chí đánh giá giữa các vùng, các tổ chức không đồng nhất. Một số giống phải khảo nghiệm lặp lại 2-3 vụ vì sai khác trong chỉ tiêu hình thái hoặc quy trình chăm sóc giữa các điểm khảo nghiệm. Điều này không chỉ kéo dài thời gian đưa giống vào sản xuất, mà còn tăng chi phí của doanh nghiệp, khiến cơ quan quản lý gặp khó khi xem xét hồ sơ lưu hành.
GS.TSKH Trần Đình Long: "Với nhóm cây không thuộc danh mục cây trồng chính, cơ chế tự công bố theo tiêu chuẩn cơ sở là phù hợp". Ảnh: Bảo Thắng.
Một nguyên nhân nữa, là dữ liệu khảo nghiệm chưa tạo thành hệ thống dùng chung. Các báo cáo kỹ thuật được lập theo từng đề tài riêng lẻ, thiếu cơ sở dữ liệu tập trung để phục vụ công tác thẩm định, hậu kiểm và truy xuất nguồn gốc giống.
Theo Trung tâm Khảo kiểm nghiệm, nhiều quốc gia xây dựng ngân hàng dữ liệu DUS để quản lý thống nhất hàng chục nghìn giống cây trồng, trong khi Việt Nam mới dừng ở lưu trữ phân tán theo đơn vị. Thực trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực quản lý nhà nước, nhất là khi lượng giống lưu hành ngày càng tăng.
Những bất cập trên cho thấy hệ thống khảo nghiệm và lưu hành giống hiện nay đang thiếu một bộ tiêu chuẩn đồng nhất làm nền tảng. Sự thiếu liên thông giữa khảo nghiệm - công nhận - tự công bố gây ra nhiều lúng túng trong thực thi, làm chậm quá trình đổi mới giống và tạo thêm chi phí tuân thủ.
Xây dựng hệ tiêu chuẩn trong bối cảnh mới
Trong cả lý thuyết lẫn thực tiễn, 2 nhóm tiêu chuẩn đóng vai trò cốt lõi trong quản lý giống gồm DUS và VCU. DUS đánh giá tính khác biệt, đồng nhất và ổn định của giống, là cơ sở để mô tả và nhận diện giống, tránh nhầm lẫn trong lưu thông. VCU đánh giá giá trị canh tác và sử dụng, phản ánh năng suất, chất lượng và khả năng thích nghi của giống trong điều kiện sản xuất. Luật Trồng trọt 2018 quy định cây trồng chính phải thực hiện cả DUS và VCU, trong khi các cây trồng khác có thể tự công bố lưu hành dựa trên tiêu chuẩn cơ sở hoặc tiêu chuẩn quốc gia khi được ban hành.
Chia sẻ tại tọa đàm, GS.TSKH Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam đánh giá, việc thống nhất tiêu chuẩn có ý nghĩa quyết định, nhất là trong bối cảnh thị trường giống rau, hoa và cây ăn quả nhập khẩu mỗi năm từ 500 triệu đến 1 tỷ USD.
Hiện công nghiệp sản xuất giống trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, trong khi năng lực nghiên cứu cơ bản còn phân tán, khiến tiến độ chọn tạo giống chậm lại. Theo ông Long, nhiều phòng thí nghiệm được đầu tư lớn nhưng thiếu nhiệm vụ nghiên cứu dài hạn, dẫn tới chưa phát huy hết công suất. Điều này làm tăng sự phụ thuộc vào giống nhập khẩu và đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn để hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào thị trường.
PGS.TS Đặng Văn Đông: "Khâu khảo nghiệm nhiều giống rau, hoa còn kéo dài". Ảnh: Bảo Thắng.
GS Long nhìn nhận, với nhóm cây không thuộc danh mục cây trồng chính, cơ chế tự công bố theo tiêu chuẩn cơ sở là phù hợp, nhưng cần tạo điều kiện để cả doanh nghiệp lẫn tổ chức sản xuất có thể xây dựng và công bố tiêu chuẩn một cách minh bạch.
Ông đề xuất xem xét thay thế danh mục cây trồng chính bằng danh mục cây trồng ưu tiên hoặc cây trồng chiến lược theo từng giai đoạn phát triển. Cách tiếp cận này sẽ tạo sự linh hoạt cho cơ quan quản lý và phản ánh đúng thực tế sản xuất; đồng thời yêu cầu tăng cường hậu kiểm để đảm bảo giống được đưa vào lưu hành đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Ở góc độ quốc tế, CropLife ghi nhận nhiều quốc gia đã phát triển cơ sở dữ liệu DUS công khai, giúp hệ thống hóa mô tả giống và tránh trùng lặp trong nghiên cứu. Đây là cách giảm chi phí cho doanh nghiệp và tạo minh bạch trong quản lý. Một số nước áp dụng mô hình giảm bớt tiền kiểm đối với giống ngắn ngày, chuyển sang hậu kiểm dựa trên bộ tiêu chuẩn thống nhất, qua đó rút ngắn thời gian đưa giống vào sản xuất mà vẫn đảm bảo chất lượng.
Phần thảo luận tại tọa đàm thống nhất rằng việc xây dựng bộ tiêu chuẩn DUS và VCU cần phù hợp đặc thù từng nhóm cây trồng. Với rau và hoa, thời gian sinh trưởng ngắn, chu kỳ sản xuất liên tục, nên tiêu chuẩn cần gọn, rõ, phản ánh tính biến động theo mùa vụ.
Trong khi đó, với cây trồng chính, tiêu chuẩn phải đảm bảo đánh giá đầy đủ các yếu tố về năng suất, chất lượng và khả năng thích nghi trước khi đưa vào sản xuất đại trà. Các chuyên gia cũng nhấn mạnh cần có cơ sở dữ liệu tập trung phục vụ thẩm định và hậu kiểm, tránh tình trạng mỗi đơn vị sử dụng một bộ tiêu chuẩn khác nhau như hiện nay.
Nghiên cứu giống rau tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm. Ảnh: FCRI.
Hoàn thiện pháp luật để đổi mới quản lý giống
Chuẩn hóa các tiêu chuẩn DUS và VCU không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là cơ sở để ngành trồng trọt định hình chính sách quản lý giống theo hướng hiện đại và phù hợp thực tiễn. Đó sẽ là tiền đề cho công tác nghiên cứu, sản xuất và lưu hành giống, đặc biệt đối với nhóm rau và hoa - lĩnh vực phụ thuộc lớn vào nhập khẩu và chịu tác động trực tiếp từ khoảng trống tiêu chuẩn hiện nay.
PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả, nhận xét, dư địa phát triển của giống rau và hoa trong nước vẫn rất lớn, nhưng quá trình chọn tạo và lưu hành đang gặp nhiều hạn chế về thủ tục và cơ chế. Nhiều giống rau, hoa khi nhập khẩu vẫn bị ách tắc tại cửa khẩu vì chưa hoàn tất công bố lưu hành, dù theo quy định đây là nhóm cây không thuộc danh mục cây trồng chính.
Việc thiếu tiêu chuẩn thống nhất dẫn đến hồ sơ đánh giá mỗi nơi một khác, gây khó cho đơn vị nghiên cứu lẫn doanh nghiệp sản xuất giống. Ông Đông cho rằng cần có cơ chế linh hoạt hơn trong việc tự công bố lưu hành giống, trên cơ sở bộ tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn cơ sở minh bạch, dễ áp dụng.
Theo ông Đông, nhiều kết quả nghiên cứu về rau, hoa chưa thể chuyển hóa thành sản phẩm thương mại vì khâu khảo nghiệm và lưu hành còn kéo dài. Việc tổ chức các khu trình diễn, đánh giá giống theo hướng mở, gắn với doanh nghiệp và địa phương sẽ giúp rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến sản xuất. Đây cũng là cách để minh bạch thông tin giống, hỗ trợ doanh nghiệp lựa chọn giống phù hợp và khuyến khích nông dân tiếp cận giống mới.
TS Nguyễn Quý Dương cam kết, xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, dựa trên tiêu chuẩn rõ ràng. Ảnh: Bảo Thắng.
Ghi nhận các ý kiến tại tọa đàm, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Quý Dương cho rằng, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn là điều kiện tiên quyết để sửa đổi các quy định về lưu hành và công bố giống. Theo Thông tư 17/2020/TT-BNNPTNT, danh mục cây trồng chính gồm 6 loại cây, còn các cây khác, bao gồm phần lớn nhóm rau và hoa, được phép tự công bố lưu hành. Tuy nhiên, cơ chế này chỉ vận hành hiệu quả khi có bộ tiêu chuẩn TCVN hoặc TCCS rõ ràng, giúp cơ quan quản lý dễ hậu kiểm, doanh nghiệp dễ áp dụng và người sản xuất yên tâm sử dụng.
Ông Dương nhấn mạnh, rằng dự thảo sửa đổi Luật Trồng trọt đang được xây dựng theo hướng sát hơn với thực tiễn và nhu cầu đổi mới của ngành. Trong đó, các quy định về khảo nghiệm, đánh giá giá trị sử dụng, tự công bố lưu hành và hậu kiểm đang được rà soát để giảm thủ tục không cần thiết, đồng thời bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm của các chủ thể tham gia.
Việt Nam cũng đang nghiên cứu kinh nghiệm quản lý giống rau, hoa của các quốc gia có điều kiện tương đồng, nhằm phát triển ngành giống trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu và khai thác tốt hơn lợi thế sản xuất ngắn ngày của nhóm cây này.
Lãnh đạo Cục cam kết phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để hoàn thiện dự thảo luật theo hướng khả thi nhất. Mục tiêu là xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, dựa trên tiêu chuẩn rõ ràng, giúp quá trình khảo nghiệm và lưu hành giống diễn ra nhanh hơn, chính xác hơn và phù hợp với định hướng phát triển ngành nông nghiệp bền vững.
Khi tiêu chuẩn được thống nhất và pháp luật được sửa đổi hợp lý, hệ thống quản lý giống sẽ tạo nền tảng cho nghiên cứu nội địa phát triển, doanh nghiệp mở rộng đầu tư và nông dân tiếp cận nhanh hơn với các giống mới.















