| Hotline: 0983.970.780

Sự vĩ đại phía sau những con số

Thứ Hai 01/09/2025 , 20:32 (GMT+7)

Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp – PTNT đã có nhiều chia sẻ hết sức thú vị.

Mặt trận hàng đầu

Thưa ông, nhìn lại 80 năm thành lập nước và gần 40 năm sau Đổi mới, ở nhiều giai đoạn lịch sử, Đảng ta đã luôn lựa chọn nông nghiệp, nông dân, nông thôn là mặt trận tiên phong nhằm tạo bước đột phá, đưa đất nước vượt qua khó khăn và tiếp tục phát triển. Điển hình là Nghị quyết 10 – NQ/TW năm 1988, nền tảng của thời kỳ Đổi mới; Nghị quyết 26- NQ/TW năm 2008 hay Nghị quyết 19 của Đại hội XIII của nhiệm kỳ này…

Chúng ta nên kiến giải thực tiễn đó như thế nào, thưa ông?

Trước hết có thể nói, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn luôn có vị trí hết sức đặc biệt trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt, nông dân Việt Nam luôn là lực lượng đông đảo nhất, có nhiều đóng góp to lớn nhất trong sự nghiệp chiến đấu giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, ở bất cứ thời kỳ nào, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt, đặt mục tiêu rất cao để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và trong nhiều giai đoạn lịch sử, Đảng đã xác định tam nông là mặt trận hàng đầu.

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT. Ảnh: Phạm Hiếu.

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT. Ảnh: Phạm Hiếu.

Điển hình nhất là thời kỳ đất nước thực hiện đường lối Đổi mới năm 1986, bắt đầu từ nông nghiệp. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ban hành năm 1988 về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã chỉ ra những chủ trương, đường lối, giải pháp mạnh mẽ. Rất nhiều giá trị của Nghị quyết 10 còn nguyên đến tận hôm nay, hễ bất cứ khi nào đất nước muốn tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ và căn bản, chúng ta vẫn thường dùng khái niệm “cần phải có một Nghị quyết 10” là vì thế.

Từ Nghị quyết 10, nền tảng của công cuộc Đổi mới toàn diện đã giúp đất nước từ chỗ thiếu lương thực, mỗi năm phải nhập khẩu 1-2 triệu tấn đến vị thế của một quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

Hiện nay chúng ta có gần 8 triệu hộ nông dân trồng lúa, mặc dù còn nhiều điều chưa được như mong đợi nhưng rõ ràng đồng ruộng vẫn là nguồn thu nhập lớn của bà con nông dân và đang ngày càng khẳng định lợi thế so sánh của nông nghiệp Việt Nam. Xuất khẩu lúa gạo năm 2024 đạt hơn 9 triệu tấn, kim ngạch hơn 5,8 tỷ USD, sản lượng lúa của nước ta từ 2-3 năm trước đã vượt mốc 43,5 triệu tấn, cao hơn tổng sản lượng lúa của toàn Châu Phi cộng lại. Tôi đi đến nhiều quốc gia có diện tích lớn hơn nước ta rất nhiều, có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên tương đồng với vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng mỗi năm cố gắng lắm cũng chỉ sản xuất được 1 - 2 triệu tấn gạo, nhìn vào thành tựu của chúng ta họ ngưỡng mộ vô cùng.

Hay đầu tư phát triển hạ tầng thủy lợi, di sản của đất nước, phục vụ 95% diện tích trồng lúa cũng như nhiều ngành hàng chủ lực khác. Thủy lợi là nền tảng quan trọng để nông nghiệp của chúng ta sản xuất ổn định, kể cả khi có lũ lụt hay hạn hán vẫn có thể được mùa, giúp người dân sản xuất ổn định, giúp nông nghiệp Việt Nam không chỉ là trụ đỡ của nền kinh tế mà còn là lợi thế của đất nước như hôm nay.

Nền tảng và lợi thế

Nếu Nghị quyết 10 mở đường đưa đất nước Đổi mới thì Nghị quyết 26 lại là một cuộc cách mạng khẳng định vai trò nền tảng và lợi thế của tam nông, thưa ông?

Khi an ninh lương thực đã được đảm bảo, Đảng ta tiếp tục định hướng tam nông phải chuyển sang một bước phát triển mới và Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X ban hành năm 2008 ra đời.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát kiến giải vị thế đặc biệt của tam nông. Ảnh: Phạm Hiếu.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát kiến giải vị thế đặc biệt của tam nông. Ảnh: Phạm Hiếu.

Có rất nhiều giải pháp cụ thể: Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; chủ trương xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội và chủ trương phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu. Tất nhiên còn nhiều quyết sách quan trọng khác, nhưng tôi cho rằng đây là 4 chủ trương, định hướng và nhóm giải pháp phát triển nổi bật nhất về lĩnh vực tam nông sau Nghị quyết 26.

Thứ nhất, thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp của chúng ta đã chuyển từ phát triển theo chiều rộng với mục tiêu sản lượng sang chiều sâu, hướng tới nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập người nông dân và bảo đảm phát triển bền vững, thân thiện hơn với môi trường.

Hơn 15 năm qua, chúng ta đã nhìn thấy kết quả rõ rệt. Nhờ điều chỉnh tập trung phát triển ngành hàng có lợi thế, có hiệu quả cao hơn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất..., tăng trưởng nông nghiệp được luôn được duy trì và ở nhiệm kỳ này đạt mức bình quân 3,5%. Năm 2025 dự kiến xuất khẩu nông sản đạt hơn 65 tỷ USD, trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

An ninh lương thực được đảm bảo vững chắc, làm nền tảng quan trọng nhất để đảm bảo ổn định xã hội, đặc biệt là vào những bối cảnh khó khăn như đại dịch Covid-19. Chúng ta có đủ điều kiện tập trung các nguồn lực về đất đai, lao động để phát triển nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp dịch vụ, tạo việc làm và thu nhập cho người dân. Điều quan trọng, xuất khẩu nông lâm thủy sản liên tục tăng đã đem giá trị đặc biệt quan trọng so với các ngành khác, phần lợi người dân được hưởng chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều.

Song song với phát triển sản xuất, đường lối phát triển nông nghiệp trong giai đoạn này đặc biệt chú trọng công tác bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trọng tâm là bảo vệ, phát triển rừng. Nếu như giai đoạn trước độ che phủ rừng chỉ có 27%, trữ lượng rừng liên tục suy giảm, thì đến nay đã được khôi phục hơn 42%, diện tích rừng trồng ngày càng tăng, có thể khai thác, chế biến và đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu đồ gỗ lớn thế giới. Ngoài ra, công tác bảo vệ, phát triển rừng tăng cả về lượng và chất còn góp phần quan trọng hấp thụ carbon, giảm phát thải, chống biến đổi khí hậu và là nền tảng quan trọng để đất nước ta phát triển bền vững.

Thứ hai, về chương trình xây dựng nông thôn mới, song song với Nghị quyết 26, Đảng ta nhìn nhận khi kinh tế phát triển, yêu cầu nâng cao đời sống người nông dân không còn là chuyện cơm ăn áo mặc mà còn cần những điều kiện khác nhằm cải thiện điều kiện sống ở nông thôn, kéo gần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, phát triển đất nước hài hòa, mọi tầng lớp nhân dân đều được thừa hưởng thành tựu của phát triển.

Chương trình được xây dựng với cách tiếp rất đặc biệt, không hẳn là đầu tư theo kiểu “nhà nước rót vốn, địa phương giải ngân” mà là một cuộc vận động với tư tưởng nhà nước hỗ trợ, nhân dân thực hiện. Nhờ đó, hàng trăm nghìn cây số đường nông thôn được xây dựng, như tôi biết, hầu hết không cần phải đền bù giải phóng mặt bằng.

Người dân tự nguyện hiến đất, di dời nhà cửa, cây cối lâu năm, thậm chí có những người dân đã hiến đất và tài sản trị giá lên đến hàng tỷ đồng, cùng với đó là sự đóng góp tiền của, công sức của cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội. Tổng kết 15 năm thực hiện chương trình, số liệu thống kê cho thấy nhà nước bỏ ra 290 nghìn tỷ đồng để đầu tư nhưng số tiền huy động nhân dân đóng góp lên đến 3,2 triệu tỷ đồng xây dựng nông thôn mới. “Ý Đảng lòng Dân” đã làm nên thành tựu to lớn, giúp nông thôn có được bộ mặt khang trang ngày hôm nay.

Thứ ba, nông nghiệp là nền tảng quan trọng đóng góp vào thành tựu giảm nghèo bền vững. Thành tựu giảm giảm nghèo của đất nước được nhân dân và bạn bè quốc tế đánh giá rất cao. Năm 2024 tỷ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn chỉ còn khoảng 3,1%, được quốc tế đánh giá “gần như chưa có tiền lệ”, “một cuộc cách mạng” và chỉ số thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng được rút ngắn.

Thứ tư là thành tựu của Chương trình Mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu. Chúng ta đã nhận diện thách thức để chủ động ứng phó theo 2 hướng: vừa thích ứng biến đổi khí hậu vừa giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Cho đến nay các bộ giải pháp này vẫn đang được tiếp tục triển khai đồng bộ.

Tựu trung lại, Nghị quyết 26 với những chủ trương đúng đắn, được triển khai tích cực đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tam nông và môi trường, góp phần rất quan trọng vào sự phát triển nhanh, hiệu quả cao. Điều đó càng khẳng định sự quan tâm và quyết tâm chính trị luôn ở mức cao nhất của Đảng, Nhà nước đối với tam nông.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Phạm Hiếu.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Phạm Hiếu.

Nhận diện kỷ nguyên mới

Đất nước bước vào kỷ nguyên mới với nông nghiệp là lợi thế, môi trường là trụ cột phát triển bền vững, lẽ tất nhiên cùng với thuận lợi, thời cơ sẽ là khó khăn, thách thức song hành. Liệu chúng ta có “cần một Nghị quyết 10” hay không, thưa ông?

Kỷ nguyên mới, trong cả 3 trụ cột phát triển bền vững thì nông nghiệp đều có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp.

Vấn đề tôi quan tâm, thậm chí quan ngại là sự suy giảm sức hấp dẫn một cách tương đối từ nông nghiệp. Điều này không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước khác, khi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã tạo ra nhiều cơ hội về việc làm và thu nhập cao hơn, người lao động, đặc biệt là những người trẻ sẽ dịch chuyển ra khỏi nông nghiệp như một quy luật tất yếu.

Hiện số lượng lao động trong nông nghiệp của chúng ta khoảng hơn 10 triệu người, so với các quốc gia khác như Nhật Bản (2,5 triệu), Mỹ (hơn 3 triệu) vẫn còn quá lớn và xu thế dịch chuyển của chúng ta sẽ cực kỳ rầm rộ trong thời gian tới, làm sao để không suy giảm nông nghiệp mới là quan trọng. Phải có định hướng và chiến lược hài hòa, bởi nếu xử lý không tốt thì lao động vẫn cứ chuyển đi nhưng đồng ruộng không được chăm bẵm, thậm chí là bỏ hoang, động lực phát triển của nông nghiệp sẽ giảm xuống.

Từ những bài học của Nghị quyết 10 và Nghị quyết 26 đã cho thấy, tạo động lực phát triển là vấn đề mang tính chiều sâu quan trọng nhất, cần đặc biệt quan tâm, để người nông dân, cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã yêu nông nghiệp và có cuộc sống tốt hơn từ nông nghiệp.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức phát và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên mới. Ảnh: Phạm Hiếu.

Nguyên Bộ trưởng Cao Đức phát và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên mới. Ảnh: Phạm Hiếu.

Giải pháp cụ thể hơn như thế nào, thưa ông?

Kỷ nguyên mới, Đảng ta đã xác định phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh và tiếp tục coi đây là nhiệm vụ mang tính chất chiến lược, cần ưu tiên, có ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.

Tôi cho rằng quá trình thực hiện chúng ta cần tiếp tục quán triệt trong Đảng và trong toàn xã hội về vai trò đó của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, biến sự quan tâm trở thành hành động, từ đó tạo nguồn lực, cơ chế chính sách để khích lệ nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào nông nghiệp.

Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, rào cản cần tiếp tục tháo gỡ. Bài học thành công thời kỳ Đổi mới chính là việc tạo ra động lực khích lệ mọi người dân, các thành phần kinh tế nỗ lực làm việc nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn, sử dụng các nguồn lực với hiệu quả cao hơn để làm ra của cải, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Đặc biệt, nếu như giai đoạn trước đổi mới về cơ chế chính sách là động lực số 1 thì ở giai đoạn này vai trò số 1 phải là khoa học công nghệ.

Mặc dù cơ chế chính sách vẫn rất quan trọng nhưng vai trò của khoa học công nghệ phải là động lực phát triển nông nghiệp quan trọng nhất. Bởi vì trong chủ trương, chiến lược phát triển chúng ta xác định phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng; một mặt vừa có năng suất, chất lượng, giá trị cao hơn, một mặt đòi hỏi phải thân thiện hơn với môi trường, phù hợp hơn với xã hội, cải thiện đời sống người nông dân…, tất cả những mục tiêu đó cần nhất là vai trò của khoa học công nghệ.

Nếu như những năm trước, chúng ta chủ yếu dựa vào khoa học kỹ thuật của các nước để ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp thì giai đoạn này phải xây dựng năng lực để phát triển khoa học công nghệ trong nước. Khi nào người Việt Nam làm chủ được khoa học công nghệ, chọn tạo được những loại giống của Việt Nam, dành cho đồng đất Việt Nam thì khi đó khoa học công nghệ đem lại lợi ích cao nhất cho người dân Việt Nam, đất nước Việt Nam.

Phải phát triển năng lực khoa học công nghệ của quốc gia, bởi nông nghiệp rất đặc thù so với lĩnh vực khác. Chúng ta có thể mua một công nghệ ở nước ngoài về sản xuất ở Việt Nam nhưng cây giống thì không dễ như vậy. Chỉ giống nào được chọn tạo, dành riêng cho đồng đất Việt Nam mới hiệu quả. Và tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể làm được. Minh chứng là Việt Nam đã có những giống lúa gạo ngon nhất thế giới, có cà phê, hồ tiêu, cá tra đứng hàng đầu thế giới.

Các nhà khoa học của Việt Nam rất giỏi, vấn đề là cần phải tạo môi trường và tiếp sức cho họ bằng cơ chế, chính sách đầu tư, cần cơ chế liên kết hài hòa, hiệu quả giữa khối nghiên cứu khoa học nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, cần cơ chế hỗ trợ không chỉ trong lĩnh vực khoa học về giống mà còn đồng bộ kỹ thuật, chế biến…

Bước vào kỷ nguyên mới, trong thời đại công nghệ số, trí tuệ nhân tạo đang mở ra những cơ hội lớn, cần nhanh chóng tiếp thu, làm chủ, phát triển, phổ biến để giúp nâng cao năng suất, chất lượng…

Đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là đầu tư khoa học công nghệ, tôi tin rằng nông nghiệp của chúng ta sẽ hấp dẫn trở lại và khẳng định vai trò lợi thế của quốc gia.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Xem thêm
Từ hợp tác Nam-Nam đến tầm nhìn đối ngoại an ninh lương thực toàn cầu

Thông qua hợp tác Nam-Nam, Việt Nam từng bước khẳng định vai trò kiến tạo an ninh lương thực toàn cầu, góp phần xây dựng thế giới bền vững và công bằng hơn.

Bình luận mới nhất