Kỳ 1: Thời đại Tokugawa
Điều thú vị thứ nhất là từ ngày lập nước, chỉ duy nhất có một dòng họ làm vua (được gọi là Thiên hoàng, Nhật hoàng hay Hoàng đế).
Người đứng đầu gia đình hoàng tộc ở Yamato, tổ tiên của vị Thiên hoàng Nhật Bản hiện nay cho mình là con của Nữ thần Mặt Trời (Amaterasu Omikami với kami nghĩa là thần, sau mở rộng nghĩa người làm việc thần thánh) và người Nhật cho rằng, chỉ có con cháu của Nữ thần mới có thể cầu xin Nữ thần. Ngôn ngữ cổ Nhật Bản, từ chính phủ là matsurigoto có nghĩa là công việc thờ cúng.
Sử liệu ấy cắt nghĩa 2 điều: 1, Nhật là nước bắt đầu từ nông nghiệp và chịu nhiều ân huệ cũng như tai ương từ mặt trời. 2, Người Nhật, từ trong tiềm thức đã không dám nghĩ tới việc tranh đoạt ngai vàng mặc dù không phải bao giờ Nhật hoàng cũng khư khư nắm giữ; khái niệm Nhật hoàng ẩn dật xuất hiện trong đời sống chinh trị nước nđy là một minh chứng rằng quyền lực của nhà vua chưa bao giờ có nghĩa độc tôn dù nó rất thiêng liêng.
Cho đến trước thế kỷ VI là lúc Phật giáo được tiếp nhận khá thận trọng và ngần ngại, tôn giáo duy nhất của người Nhật là thờ thần linh với giáo lý vạn vật hữu linh nhưng không có kinh thánh và người sáng lập.
Do được hình thành từ một chuỗi các hòn đảo, Nhật Bản cổ đại mang sắc thái một liên bang trong một quốc gia thống nhất. Có lẽ vì vậy mà quyền lực thực tế luôn luôn được trao vào tay các shogun (tướng quân) và chính họ, cùng với các Daimyo (quốc vương của các tiểu quốc) đã hình thành tầng lớp quý tộc (samurai) khá sớm sủa. Nhật hoàng khác với nhà Chu, nhà Hán chính ở điểm này mặc dầu các shogun rồi ra vẫn chiếm hữu đất đai bằng hệ thống quyền lực được gọi là bakufu.
Tóm lại, trải bao phen sóng gió chao đảo nhưng quyền thiêng liêng của Nhật hoàng chưa bao giờ bị tước đoạt nhưng cũng chưa bao giờ được độc tôn. Vào đêm trước của duy tân, phần lớn quyền cai trị đất nước (bakufu) nằm trong tay nhà Tokugawa.
Thoạt đầu, Tokugawa Ieyasu là một trong 5 daimyo được nhà vua Hideyoshi chọn làm cố mệnh triều đình, sẽ giữ quyền đồng nhiếp chính phò tá cho con trai của ngài mới có 5 tuổi là Hideyori lên ngôi vào năm 1598 và ông là một daimyo mạnh nhất. Nhưng rồi, hóa ra ông cũng có kẻ thù là một nhiếp chính khác, và từ đấu đá ngấm ngầm trong triều đã bùng nổ thành chiến tranh mà vào lúc đông nhất, nó đã lên tới hơn chục vạn chiến binh. Tokugawa chiến thắng và nắm lấy quyền điều hành bakufu. Ông ta đã lập đại bản doanh ở Edo trên cánh đồng Kanto cho mình và kiến tạo trên cái làng đánh cá và đầm lầy thành thủ đô Kyoto trong suốt 250 năm.
Nhưng đó mới chỉ là công tích đầu tiên trong hàng chuỗi công tích ông đã làm cho đất nước. Ông rồi các con cháu ông đều là những người đa mưu túc kế, chịu khó học hỏi và đều biết lắng nghe; họ đều “nghỉ hưu” trước tuổi để đảm bảo cho con mình kế vị vào lúc còn trẻ. Cũng như Hideyoshi, các shogun nhà Tokugawa nắm quyền như các thần dân bậc nhất và thừa nhận quyền lực tối cao của Thiên hoàng trên danh nghĩa. Ông cũng chấp nhận quyền độc lập tương đối của các daimyo và các baku - han (chính quyền địa phương) nhưng không bao giờ họ dám thoát ra khỏi tình trạng lệ thuộc bakufu.
Suốt hơn 200 năm nhà Tokugawa nắm quyền, đất nước thanh bình, các shogun và samurai mà trang phục bắt buộc mỗi khi ra đường là phải đeo hai thanh gươm, vật tượng trưng cho quyền uy hoá ra là thừa. Các shogun bắt đầu biết đến các bàn tính và việc gõ con tính mà tiền bạc sinh sôi dần dần hấp dẫn họ và được họ coi cũng là một chiến công trên thương trường. Cho đến trước năm 1600 nền kinh tế của Nhật mới chủ yếu là tự cung tự cấp, các thành phố Nigasaki, Kyoto, Osaka và Edo tuy đã là những thị trường sầm uất, nhưng nó mới chỉ nhằm phục vụ tầng lớp quý tộc và tăng lữ. Chỉ đến khi Tokugawa nắm quyền, tiền tệ mới xâm nhập mạnh vào tận vùng sâu xa ngành thương mại do đó rất phát triển. Các làng quê bị cuốn vào nền kinh tế, các địa chủ năng nổ đã rất nhanh chóng vươn lên. Vào năm 1860, nhiều nông dân đã có mức sống vật chất mà nửa thế kỷ trước, ngay cả những samurai quyền thế cũng khó mà có nổi.
Như thế, chính bakufu nhà Tokugawa đã tạo nên các tiền đề cho hiện đại hoá đất nước; đặc biệt họ đã tạo nên từ các vùng hẻo lánh những thị trấn sầm uất, những xưởng chế tạo sôi động. Nhưng có thể ngay người khởi xướng cũng không ngờ mình lại làm cho xã hội Nhật Bản biến đổi nhiều đến thế. Ngoài các shogun, samurai gẩy bàn tính, các nông dân thành đạt đã hoá thành các nhà lãnh đạo phường hội và xã hội nông dân đã hình thành các sinh hoạt mới lạ. Ban đầu là sinh hoạt nghề nghiệp, chuyển từ thôn tính đối đầu sang bàn bạc hiệp thương; bước sau đó là tạo nên tinh thần cố kết Nhật Bản và cuối cùng là sinh hoạt chính trị. Điều kỳ lạ là, với một chế độ phong kiến khép kín, nhưng được lãnh đạo bởi các shogun tài ba, một tập quán thị trường phương Tây lại nẩy nở và phát triển ngay trong lòng xã hội phương Đông và làm nên một nghịch lý thú vị.
Nhưng điều thú vị cuối cùng còn “nghịch lý” hơn nhiều.
Sau nhiều năm các sinh hoạt của phường hội, của các samurai kiểu mới dần tạo nên một sức ép ngày một mạnh lên. Đó là những con người của thời đại mới, họ muốn xây dựng một chính quyền quốc gia dưới quyền nhà vua của họ. Và rồi, vào tháng 10/1867 shogun đương quyền là Tokugawa Yoshinobu (1837- 1913) đã tự nguyện rời bỏ chức vụ, từ chối không chịu chỉ định người kế nhiệm. Ông viết trong lời tuyên bố từ chức:
“Giờ đây quan hệ ngoại giao ngày một mở rộng, nếu chính quyền không được chỉ huy từ một quyền lực trung ương thì nền tảng đất nước sẽ tan vỡ. Tuy nhiên, nếu trật tự cũ được thay đổi, quyền cai trị đất nước được phục hồi trao trả lại cho Hoàng triều, và nếu mọi cuộc thảo luận quốc gia được tiến hành trên quy mô rộng và quyết định của Hoàng đế được đảm bảo và nếu quốc gia được toàn thể nhân dân cố gắng ra sức ủng hộ thì quốc gia sẽ có thể giữ vững được thế đứng và phẩm cách của mình, trong cộng đồng các nước trên thế giới…”
Lòng yêu nước bằng một trí năng chính trị sáng suốt của Tokugawa Yoshinobu có thể được coi như một thần kỳ trong những thần kỳ Nhật Bản, nhưng trước mắt nó sẽ gây sóng gió trên chính trường Nhật; nó là một diễm phúc mặc dù nó đã không thể được coi như vậy. Vì máu sẽ còn phải đổ cho chính lòng yêu nước đó.
Văn Chinh (Còn nữa)