| Hotline: 0983.970.780

Mã số vùng trồng phải trở thành pháp lý quốc gia

Thứ Sáu 07/11/2025 , 16:56 (GMT+7)

LẠNG SƠN Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị yêu cầu thể chế hóa, đưa mã số vùng trồng vào hệ thống pháp luật, tạo nền tảng minh bạch nguồn gốc.

Chuyển từ lâm nghiệp truyền thống sang số hóa vùng trồng

Ngày 7/11, làm việc với Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị và đoàn công tác của Bộ, Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đông Bắc (xã Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn) mang theo một câu chuyện hiếm thấy trong ngành lâm nghiệp. Từ chỗ thua lỗ nhiều năm liên tục, đến nay doanh nghiệp đã thoát lỗ, đứng vững và bước vào giai đoạn chuẩn hóa sản xuất theo mã số vùng trồng rừng, quản lý trên nền tảng công nghệ số.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị yêu cầu đưa nội dung 'mã số vùng trồng rừng' vào văn bản pháp luật. Ảnh: Hoàng Nghĩa.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị yêu cầu đưa nội dung “mã số vùng trồng rừng” vào văn bản pháp luật. Ảnh: Hoàng Nghĩa.

Công ty này là đơn vị thành viên của Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam. Nhiệm vụ chính là sản xuất giống cây lâm nghiệp, trồng rừng nguyên liệu, khai thác, kinh doanh gỗ trụ mỏ. Công ty hiện thuê 5.515,2 ha đất lâm nghiệp trên địa bàn hai tỉnh, trong đó diện tích thuộc Lạng Sơn chiếm gần 4.000 ha.

Đáng chú ý, 2.700 - 3.000 ha rừng của doanh nghiệp đều là rừng trồng, khoán trực tiếp cho các hộ dân ở cơ sở. Hai bên cùng bỏ vốn, cùng chia theo tỷ lệ đầu tư, tạo sinh kế và việc làm cho nhân dân.

Giai đoạn 2017 - 2022, do nấm bệnh trên bạch đàn và tác động của nhiều cơn bão lớn làm gãy đổ cây trồng, hoạt động SXKD của Công ty rơi vào thua lỗ. Bước ngoặt đến từ năm 2020 khi Công ty xây dựng phương án tái cơ cấu toàn diện, từ sắp xếp nhân sự, quản lý rừng đến điều hành sản xuất.

“Đây là chuỗi kết quả chứng minh rằng tái cơ cấu đúng hướng là có giá trị thực. Quan trọng nhất là bộ máy thay đổi tư duy quản lý”, lãnh đạo doanh nghiệp nhấn mạnh.

Thực hiện Quyết định 2260 của Bộ NN - PTNT (cũ), từ giữa năm 2024 Công ty tham gia thí điểm cấp mã số vùng trồng rừng. Phối hợp với Chi cục Kiểm lâm và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Lâm nghiệp, doanh nghiệp rà soát, xác định từng lô rừng đủ chuẩn. Đến nay 2.565,1 ha đã được cấp mã số, trong đó 2.093,8 ha trên địa bàn Lạng Sơn. Cả keo, bạch đàn và cây bản địa đều đã được định danh nguồn gốc, được số hóa trên hệ thống iTwood và có key vận hành riêng.

Đại diện Công ty kiến nghị Bộ tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ảnh: Hoàng Nghĩa.

Đại diện Công ty kiến nghị Bộ tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ảnh: Hoàng Nghĩa.

Điều này mang ý nghĩa quan trọng bởi doanh nghiệp không còn bán gỗ theo kiểu “gỗ của Công ty”, mà từng vùng, từng lô đều có định danh. Truy xuất nguồn gốc không còn là khẩu hiệu mà là dữ liệu số.

Tuy nhiên, iTwood mới ở giai đoạn chạy thử, chưa có công cụ báo cáo hoàn chỉnh, Công ty phải dùng thêm MapInfor để liên kết dữ liệu. Doanh nghiệp kiến nghị Bộ sớm hoàn thiện, ban hành thông tư hướng dẫn chính thức để chuẩn hóa toàn quốc.

Minh bạch nguồn gốc để tạo sân chơi công bằng

Theo đại diện Công ty, thực tế lâm nghiệp hiện nay cho thấy rừng trồng là chủ lực, nhưng nhiều hộ tự ươm giống nhỏ lẻ không đạt diện tích tối thiểu vẫn xuất bán; gỗ rừng trồng khai thác cũng lưu thông tương đối “thoáng”, gây bất lợi cho các đơn vị tuân thủ nghiêm túc.

Doanh nghiệp đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tham mưu Chính phủ một cơ chế chặt chẽ hơn để mọi sản phẩm lâm nghiệp đều phải minh bạch về nguồn gốc. Khi chuỗi cung ứng được chuẩn hóa, sân chơi sẽ công bằng giữa mọi chủ thể.

Công ty cũng nêu vấn đề hỗ trợ thiên tai. Bão Yagi 2024 cho thấy hộ dân có đất tự trồng được hỗ trợ, nhưng hộ nhận khoán trồng rừng cùng doanh nghiệp lại không được hưởng. Đây là bất bình đẳng chính sách cần được tháo gỡ.

Ngoài ra, việc tiếp cận nguồn vốn trồng rừng thay thế vẫn còn vướng mắc hạch toán: nếu nhận tiền từ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng để trồng rừng thay thế, khoản này được tính là tăng vốn điều lệ hay hạch toán riêng? Doanh nghiệp đề nghị Bộ có hướng dẫn rõ để doanh nghiệp có cơ sở tiếp cận nguồn lực.

Đưa mã số vùng trồng vào hệ thống pháp luật

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị đánh giá cao việc Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đông Bắc chủ động kiến nghị, nêu khó khăn thực tiễn trong triển khai. Các đề xuất của doanh nghiệp là đúng vào những “điểm nghẽn” đang tồn tại trong quản lý lâm nghiệp như vấn đề chất lượng giống, cơ chế sử dụng vốn trồng rừng thay thế và cơ chế quản lý dữ liệu, cấp mã số vùng trồng.

Đại diện lãnh đạo các đơn vị của Bộ NN-MT trao đổi, giải đáp các vướng mắc của Công ty. Ảnh: Hoàng Nghĩa

Đại diện lãnh đạo các đơn vị của Bộ NN-MT trao đổi, giải đáp các vướng mắc của Công ty. Ảnh: Hoàng Nghĩa

Về mã số vùng trồng rừng, Thứ trưởng nhấn mạnh, mục tiêu của cấp mã số là đơn giản, pháp lý, giá trị gia tăng. Mỗi lô rừng phải có định danh và phải được số hóa. Quy trình cấp phải đơn giản, chủ rừng khai thông tin lô rừng, cơ quan quản lý xác nhận và cấp mã. Dữ liệu sử dụng cho quản lý nhà nước là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, không đẩy gánh nặng kỹ thuật sang người dân hay doanh nghiệp.

Thứ trưởng yêu cầu các đơn vị liên quan của Bộ phải nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu lâm nghiệp thống nhất toàn quốc. Các phần mềm hiện có phải tận dụng tối đa, không lãng phí nguồn lực đã đầu tư.

Thứ trưởng cũng yêu cầu đưa nội dung “mã số vùng trồng rừng” vào văn bản pháp luật, từ cấp nghị định, thông tư đến luật, để tạo địa vị pháp lý rõ ràng. Đồng thời yêu cầu đưa nội dung mã số vùng trồng vào bộ hồ sơ “gỗ hợp pháp”, coi đó là một căn cứ pháp lý trong xác nhận nguồn gốc.

Thứ trưởng đề nghị các đơn vị liên quan của Bộ khẩn trương thể chế hóa ngay việc nghiên cứu giống, xây dựng quy trình cấp mã số đơn giản, rà soát tích hợp mã số vùng trồng rừng vào hệ thống dữ liệu quản lý lâm nghiệp.

“Chúng ta phải làm ngay, không để kéo dài. Khi mã số vùng trồng rừng trở thành dữ liệu pháp lý quốc gia, toàn bộ hệ thống lâm nghiệp sẽ vận hành theo chuẩn minh bạch, truy xuất rõ ràng và tạo ra giá trị thực tế cho doanh nghiệp, địa phương và ngành lâm nghiệp”, Thứ trưởng nói.

Xem thêm
Dựng ‘thành lũy’ trước thiên tai: [Bài 2] Chuyển trạng thái từ bị động sang chủ động

Một trong những đột phá lớn nhất trong công tác phòng, chống thiên tai là thay đổi nhận thức toàn xã hội, chuyển từ trạng thái bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa.