Tác giả cuốn sách này là sĩ quan hải quân, nhà sử học người Mỹ - Đô đốc Alfred Thayer Mahan (1840-1914). Ông được xem như một trong những lí thuyết gia hải quân lỗi lạc giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Những quan điểm do Mahan đưa ra không chỉ có ảnh hưởng đối với sự phát triển của lí thuyết về nghệ thuật hải chiến mà còn ảnh hưởng tới việc hình thành chính sách đối ngoại và học thuyết về hàng hải của nhiều quốc gia ven biển trên thế giới.
Alfred Thayer Mahan (1840-1914) - tác giả cuốn sách "Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783". Ảnh: NXB.
Đằng sau sức mạnh hải quân và các cuộc hải chiến
"Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783" xuất bản lần đầu vào năm 1890, thời điểm nước Anh đang thống trị trên các đại dương, và hải quân Mỹ chưa thực sự là thế lực có thể cạnh tranh với họ.
Cuộc nội chiến 1861-1865 đã dạy cho nước Mỹ một bài học rất rõ ràng rằng, sức mạnh vượt trội nằm trong tay những người làm chủ được mặt biển. Trên thực tế, nước Mỹ cũng chỉ có thể trở thành siêu cường nhờ nắm được sức mạnh của đại dương.
Trong cuốn sách, Mahan đã viết về lịch sử từ năm 1660 đến năm 1783 của các quốc gia ven bờ Bắc Đại Tây Dương, dưới góc nhìn của mình. Ở đó, trật tự giữa các quốc gia được định đoạt trên mặt biển và bước ngoặt lịch sử được xác lập thông qua những cuộc hải chiến.
A.T. Mahan lần lượt miêu tả sự trỗi dậy và những thăng trầm của các đế chế hải quân châu Âu như Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, không chỉ qua những cuộc chiến tranh ở châu Âu mà còn ở Bắc Mỹ, trong việc tranh giành các lợi ích lớn lao ở châu lục mới này. Điều đó có nghĩa, đằng sau sức mạnh hải quân và các cuộc hải chiến là sự thúc đẩy mạnh mẽ của các tham vọng thương mại.
Mahan còn cho rằng, với các quốc gia trên, thương mại là điểm tựa quan trọng nhất của các lực lượng hải quân, và sự tồn tại của hải quân chỉ chính đáng khi nó bảo vệ được những lợi ích thương mại tương xứng.
Sự phát triển của các ngành kinh tế biển, đặc biệt là vận tải biển, đến một lúc nào đó, cần sự hỗ trợ của hải quân trước các nguy cơ trên biển mà nguy cơ chủ yếu là sự tấn công của các lực lượng bên ngoài. Ngược lại, kinh tế biển cũng là chỗ dựa vững chắc về nguồn lực, đặc biệt là tài chính, để duy trì lực lượng hải quân. Tính gắn bó hữu cơ này giữa kinh tế và hải quân phải là nền tảng cho bất kỳ một chiến lược biển hiệu quả nào.
Sách "Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783". Ảnh: NXB.
Ảnh hưởng của học thuyết sức mạnh trên biển
Trọng tâm học thuyết Sức mạnh trên biển của Mahan là luận điểm cho rằng đại dương thế giới là con đường giao thương, nối các quốc gia “bị nước chia cắt” lại với nhau. Nguyên lí do ông đưa ra - biển chia rẽ và liên kết - là nguyên lí chủ đạo.
Mahan cho rằng các quốc gia sống bằng xuất khẩu hàng hóa thì phải kiểm soát biển, phải giành lấy và giữ được quyền kiểm soát biển, nhất là kiểm soát các tuyến giao thông biển huyết mạch liên quan tới lợi ích và ngoại thương của quốc gia mình - sức mạnh biển là nhân tố chính làm cho đất nước giàu mạnh. Muốn thế, phải có lực lượng hải quân và đội thương thuyền mạnh cùng một mạng lưới các căn cứ địa trên biển.
Và một quốc gia muốn nhắm tới quyền bá chủ trên biển thì phải đáp ứng được các điều kiện: có tất cả các đặc điểm của một đảo quốc với đường bờ biển dài, nhiều vịnh, vũng, hải cảng, nhất là lại nằm ở cửa những dòng sông tàu bè có thể ra vào được, có thể xây dựng cảng và căn cứ hải quân, là quốc gia có vị trí thuận lợi nhất. Mahan cũng chứng minh, Mỹ có tất cả các đặc điểm của một đảo quốc, vì vậy, nước này phải có lực lượng trên biển đầy sức mạnh.
Sức mạnh trên biển, theo quan điểm của Mahan, là một hệ thống phức tạp, bao gồm những thành phần như hạm đội tàu chiến và đội thương thuyền, cảng và căn cứ hải quân. Ông sử dụng công thức sau: SP = N + MM + NB. Nghĩa là: Sức mạnh trên biển (Sea Power - SP) là hải quân (Navy - N) + đội thương thuyền (Merchant Marine - MM) + căn cứ hải quân (Naval Bases - NB).
Bên cạnh nêu các tham số tham gia vào việc định đoạt tư duy chiến lược biển của các quốc gia, như vị trí địa lý, điều kiện vật chất, quy mô lãnh thổ và đặc điểm của người dân, Mahan cũng đề cập đến vai trò mang ý nghĩa quyết định của nhà nước.
Ông đưa ra những phân tích liên quan đến sự khác biệt về sức mạnh trên biển giữa các quốc gia tự do và chuyên chế. Mahan cho rằng, các thể chế tự do luôn có cách tiếp cận hiệu quả nhất trong việc phát triển những tiềm lực kinh tế biển và hải quân quốc gia, nơi các nhà buôn được tự do phát huy mọi năng lực thương mại của mình và sau đó đóng góp trở lại cho ngân khố.
Sau khi phân tích từ góc độ chiến lược ảnh hưởng của các nhân tố sức mạnh biển, Mahan đề xuất chiến lược hải quân là xây dựng và tăng cường sức mạnh trên biển trong thời bình và thời chiến nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của quốc gia. Theo Mahan, phương pháp giành quyền kiểm soát biển là tác chiến trên biển và phong tỏa trên biển. Ông nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản tác chiến trên biển là tập trung binh lực và chủ trương nước Mỹ nên thành lập hạm đội biển xa, trước tiên để kiểm soát biển Caribe và eo biển Trung Mỹ, sau đó tiến ra các đại dương, và chủ trương hợp tác với các cường quốc khác.
Tư tưởng sức mạnh biển của Mahan cuối cùng được Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt chấp nhận dùng làm căn cứ xây dựng chính sách ngoại giao. Chính phủ Mỹ chuyển từ tư duy đất liền sang tư duy biển. Cuối thế kỷ 19, sức mạnh hải quân Mỹ từ thứ 12 nhảy lên thứ 3 thế giới. Sau Thế chiến I, Mỹ là quốc gia có sức mạnh hải quân lớn nhất thế giới và sau Thế chiến II, Mỹ hoàn toàn kiểm soát Thái Bình Dương.
Những tư tưởng Mahan về “sức mạnh biển” nhanh chóng lan tỏa và định hình chiến lược biển của nhiều cường quốc. Ở Anh, nó được xem là sự khẳng định cho vị thế của “đế chế mặt trời không bao giờ lặn”. Còn tại Đức và Nhật Bản, học thuyết Mahan trở thành nền tảng tư tưởng để xây dựng các lực lượng hải quân hùng mạnh đầu thế kỷ XX.
Ảnh hưởng của Mahan không chỉ dừng ở lĩnh vực quân sự. Tư tưởng về “sức mạnh biển” còn tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại và học thuyết hàng hải của nhiều quốc gia ven biển. Cho đến nay, rất nhiều các công trình về lý thuyết chiến tranh hay chiến lược quốc gia đều nhắc đến Mahan như một nền tảng tư tưởng không thể thiếu.























